Ng�n Ngữ - Ký Ức v� Thi Ca Truyền Khẩu Việt Nam

Võ Thu Tinh


Về phương diện ng�n ngữ, c� thể chia văn chương truyền khẩu th�nh hai loại: Loại văn vần c� hình thể cố định, như ca dao, d�n ca... lời được lưu truyền nguy�n văn, kh�ng thay đổi, đồng thời vì lu�n lu�n ngắn gọn v� c� nhiều vần, n�n được tiếp nhận dễ d�ng v� được ghi khắc v�o ký ức của người nghe một c�ch l�u d�i. V� loại văn xu�i c� hình thể kh�ng cố định, như c�c truyện thần thoại, huyền thoại, cổ t�ch, truyện kể, lời văn kh�ng cố định, c�ng một cốt chuyện như nhau, m� khi kể, mỗi người lại d�ng lối văn ri�ng của mình, kh�ng ai giống ai. Khi nghe kể xong, người ta chỉ nhớ cốt chuyện m� th�i, chớ kh�ng mấy ai nhớ hết c�c lời văn xu�i m� người kể đã d�ng. Paul Val�ry giải th�ch hiện tượng ấy như sau: "Ng�n ngữ m� t�i vừa d�ng để diễn đạt một ý đồ, một sự mong muốn, một mệnh lệnh, một ý kiến, một thỉnh cầu hay một giải đ�p của t�i, c�c c�u văn xu�i ấy, một khi vừa l�m xong nhiệm vụ truyền đạt của ch�ng, tức khắc sẽ biến mất. T�i đã thốt c�c c�u văn xu�i ấy ra, l� để cho ch�ng n� ti�u tan đi v� dứt kho�t biến nhập v�o trong tr� �c c�c anh... Nếu c�c anh đã hiểu được những lời t�i n�i rồi, thì những lời ấy kh�ng còn cần thiết gì đối với c�c anh nữa, ch�ng đã biến v�o t�m tư c�c anh, v� để b� lại, c�c anh đã nhận được của t�i, dưới hình thức c�c tư tưởng v� c�c ý thức li�n hệ, những gì để c�c anh c� thể phục nguy�n lại ý nghĩa trong những lời văn xu�i m� t�i đã d�ng, bằng những lời văn của ch�nh c�c anh thốt ra, v� những lời ấy c� thể kh�c với những lời của t�i vừa n�i đ� ".(1)

Nếu một c�u chuyện qu� d�i, kh� nhớ, d�n gian ta thường xen v�o ở mỗi đoạn ch�nh của c�u chuyện ấy một v�i "c�u thơ" ngắn để l�m mốc,� nhờ đ� về sau, người nghe c� thể nhớ lại c�c diễn biến của cốt chuyện dễ d�ng hơn. Chẳng hạn trong một cổ t�ch d�i như chuyện Tấm C�m, ở mỗi sự việc ch�nh đều c� một v�i "c�u thơ" k�m theo, v� dụ như:

Đoạn đầu, Tấm nu�i c� bống của Phật cho:

        C�i bống l� c�i bống bang ! �
        L�n ăn cơm v�ng, cơm bạc nh� ta.
        Đừng ăn cơm hẩm ch�o hoa nh� người

Đoạn Tấm bị dì ghẻ giết, h�a ra chim ho�ng oanh:

        Giặt �o chồng tao,
        Thì giặt cho sạch.
         Phơi thì phơi bằng s�o,
        Chớ phơi h�ng r�o,
        R�ch �o chồng tao !

Đoạn gần cuối, Tấm lại bị giết, lần nầy Tấm ho� ra tr�i thị:

        H� tr�i thị rơi bị b� gi�,
        B� đem về nh� ngửi chớ b� kh�ng ăn!

Trong Introduction � la po�sie orale (Nhập m�n thi ca truyền khẩu), gi�o sư Paul Zumthor nhận x�t rằng: "Người ta c� thể ngờ rằng trong lịch sử đã kh�ng bao giờ c� một nền văn h�a n�o m� kh�ng c� thi ca truyền khẩu" (2). V� Jean-Louis Joubert, trong La Po�sie (Thi Ca), đã x�c nhận th�m: "Khi chưa c� chữ viết, người ta phải cầu đến thi ca truyền khẩu để ghi lại v� vĩnh cửu h�a những gì con người đã n�i hay đã nghĩ. [...] V� lời n�i bảo tồn l�u cũng bằng chữ viết, c� khi lại còn l�u hơn chữ viết nữa." (3) Thi ca truyền khẩu l� một "thuật nhớ" (mn�motechnique), l� "ký ức" của những d�n tộc kh�ng c� chữ viết. D�n ta từ xưa cũng c� c�u:

        Trăm năm bia đ� vẫn mòn,
        Ng�n năm bia miệng hãy còn trơ trơ !

Nh� thơ d�ng "chữ viết ", khi s�ng t�c chỉ c� một mình. Viết xong, còn c� thì giờ sửa tới sửa lui. T�c phẩm "thơ chữ viết" l� một sở hữu ri�ng của t�c giả. Còn ở thơ truyền khẩu, d�n gian khi s�ng t�c thường đối diện với nhiều người v� phải ứng t�c c�c c�u ca dao, d�n ca tức khắc v� ngay tại chỗ. Nếu c�c c�u ứng t�c ấy được d�n gian cho l� hay, l� đ�ng với t�m tình, ước vọng của mình, thì họ đem c�c c�u ấy ra lặp lại (hay đọc lại) nguy�n văn, kh�ng thay đổi, để đối đ�p với nhau trong những dịp hò h�t về sau. Paul Zumthor cho rằng: "Thơ truyền khẩu l� một c�ng trình "đọc lại" hơn l� một c�ng trình "s�ng tạo". (4) Tất nhi�n, ở thi ca truyền khẩu Việt Nam, cũng như ở thi ca truyền khẩu của bất cứ d�n tộc n�o, l�c đầu hẳn cũng phải c� ngưới "s�ng tạo" ra, rồi d�n gian về sau mới c� m� " lặp lại" hay "đọc lại". Những người s�ng tạo ra thơ truyền khẩu của d�n ta l� những người sinh sống ở n�ng th�n: c�y ruộng, l�m c�ng, l�m thợ... v� đ�ng kể nhất l� c�c h�n Nho. H�n Nho l� những nh� Nho ngh�o (h�n) sinh ra ở th�n qu�, lớn l�n ở th�n qu�. Ch�nh họ l� những người m� đời sống đã gắn liền với x�m l�ng, với b� con, l�ng giềng, th�n thuộc ch�n lấm tay b�n, để chia xẻ, từ những nỗi kh� khăn thường ng�y, đến những lối suy cảm, những niềm vui buồn s�u xa của con người n�ng th�n Việt Nam. Những dịp hội h�, nh�m họp, h�t xướng, họ đều c� mặt. Ch�nh họ l� những người đã "g�" thơ cho trai, g�i trong l�ng h�t đối đ�p với nhau, tức l� đã dự một phần lớn v� quan trọng v�o c�ng việc "s�ng t�c nguy�n thủy". Những c�u ý hay, lời đẹp của họ đã được truyền miệng từ anh trai c�y đến chị thợ cấy, đem lại cho c�c nh� thơ bình d�n v� danh kh�c bao nhi�u nguồn cảm hứng để s�ng t�c th�m. Ch�nh Nguyễn Du l�c thiếu thời đã từng bao nhi�u năm đi h�t phường vải, đã từng ứng t�c c�u h�t, lời ca cho nam nữ thanh ni�n. Trong Truyện Kiều, ai biết được c� bao nhi�u c�u giống ca dao, hay c� bao nhi�u c�u Kiều ng�y nay đã trở th�nh c�c c�u ca dao? Nhưng thường cũng c� trường hợp, d�n gian, trong khi lặp lại c�c c�u đã được ứng t�c từ trước, đã tự động sửa đổi đi �t nhiều. (Sửa đổi cũng c� thể coi như một c�ng trình "s�ng tạo", nhưng ở phạm vi nhỏ hẹp hơn m� th�i). Sửa đi sửa lại nhiều lần như thế, đến khi lời thơ được xem như l� ho�n hảo rồi, thì hình thể c�u ca dao hay d�n ca sẽ được cố định v� được d�n gian lưu truyền l�u d�i, s�u rộng hơn. Thi ca truyền khẩu kh�ng phải l� tư hữu của một c� nh�n n�o, m� l� kết quả của sự cọng t�c trong thời gian, trong kh�ng gian, giữa nhiều người trong d�n ch�ng.

Thi ca truyền khẩu gồm c� ca dao v� d�n ca... Song hai loại nầy kh�c nhau thế n�o? Ca dao vốn l� b�i h�t su�ng kh�ng c� đệm tiếng nhạc, l� những c�u h�t theo giọng điệu tự nhi�n, lưu h�nh trong n�ng th�n để b�y tỏ tình tự của d�n gian. Còn d�n ca l� những b�i h�t theo một l�n điệu nhất định, như h�t xoan Ph�-thọ, h�t phường vải Nghệ Tĩnh, h�t quan họ Bắc-ninh, h�t b�i chòi Bình-định, h�t ca lý Nam phần... hay hò cấy l�a, giã gạo, ch�o đò, k�o gỗ... phần lớn để vừa tỏ t�m tình, lại vừa gi�p cho qu�n mệt nhọc trong khi lao t�c. D�n ca c� nhiều tiếng l�y, tiếng đệm, hay tiếng hò, tiếng x� ở điệp kh�c, để đưa hơi, đưa giọng cho dễ h�t. Nếu gạn bỏ c�c tiếng l�y, đệm, hò, x� ấy đi, thì những lời còn lại hình thể giống như những c�u ca dao. Hay ngược lại. Chẳng hạn như c�u ca dao:

        Thương em cho nửa tr�i cau,
        Giấu cha giấu mẹ, n�p sau b�ng đ�n.

Nếu đem ra hò theo d�n ca, điệu "hò hụi Ki�n Giang" Nam phần, thì phải th�m c�c tiếng đệm, l�y, hò, x� như sau: X� : " (Hò hụi l� l� hụi hố khoan. Khoan hố khoan hố khoan ơ hò hụi). Kể : (L� anh c�) thương em, X� : (L� l� khoan hố khoan, hố khoan ơ hò hụi). Kể : Cho nửa tr�i cau, X� : (L� l� khoan hố khoan, hố khoan ơ hò hụi.) Kể : Giấu cha giấu mẹ, X� : (L� l� khoan hố khoan, hố khoan ơ hò hụi). Kể : N�p sau b�ng đ�n ".

Hoặc mấy c�u d�n ca theo điệu "quan họ" Bắc Ninh dưới đ�y: " (Tình bằng c� c�i) trống cơm, (khen ai) kh�o vỗ (ấy mấy v�ng) n�n v�ng (ấy mấy v�ng n�n v�ng). Một bầy (tang tình) con s�t lội (lội lội) s�ng (ấy mấy) đi tìm. (Em nhớ) thương ai (đ�i) con mắt (ấy m�) lim dim. Một bầy (tang tình) con nhện (� ớ a, ấy mấy) đi tìm (đi tìm, ấy mấy) giăng tơ ".

Gạn bỏ c�c tiếng l�y, đệm, hò, thì c� hình thể giống như ca dao:

        Trống cơm kh�o vỗ n�n v�ng, �����
        Một bầy con s�t (a) lội s�ng đi tìm.
        Thương ai con mắt lim dim,
        Một bầy con nhện đi tìm giăng tơ...

Ch� giải : (a) Con s�t = loại chim sống trong ruộng nước, l�ng xanh, mõ đỏ, hay ăn l�a.

Tr�n thực tế, ng�y nay khi ghi lại một b�i d�n ca, người ta chỉ ghi c�c lời ca hình thể giống như một b�i ca dao, kh�ng ghi c�c tiếng l�y, tiếng đệm, tiếng hò, tiếng x�, v.v...

Nh� thơ d�n gian phải ứng khẫu tức khắc v� ngay tại chỗ trước mặt mọi người, kh�ng c� thì giờ để suy nghĩ, tìm tòi những gì mới lạ hơn... m� chỉ c� thể dựa v�o những điều mình đã biết, đã nhớ, những gì đã c� sẵn trong tr�, trong tiềm thức, trong ký ức của mình. Đối tượng của thi ca truyền khẩu l� d�n ch�ng th�n qu�, vì vậy những điều m� ca dao, d�n ca n�i l�n còn phải bắt nguồn từ trong t�m tình, ý nghĩ, ước vọng chung của d�n tộc Việt Nam, thì mới được d�n gian cảm th�ng, tiếp nhận một c�ch dễ d�ng. Những điều d�n ca, ca dao n�u ra c� t�nh c�ch như l� những c�u trả lời cho c�c c�u hỏi m� d�n gian đã từng tự đặt ra trong tiềm thức của họ.

M� ứng khẩu hay ứng t�c thì thường phải c� "hứng". Từ xưa đến nay, từ đ�ng sang t�y, c�c nh� thơ đều cho rằng "hứng" l� điều kiện cần thiết để s�ng t�c thơ văn. "Hứng"� thường c� ba lối:� Một l� "thi�n hứng", l� đặc �n của trời ph� cho một số �t người, bỗng nhi�n thốt ra được những c�u thơ rất hay m� ch�nh t�c giả cũng kh�ng ngờ được. Hai l� hứng theo "th�i quen", vì th�i quen l�u ng�y đã trở th�nh một "bản sinh thứ hai" của những người thuộc được nhiều c�u ca dao, d�n ca, v� thường đi hò h�t l�u năm ở nhiều nơi. Nhờ thuộc được nhiều c�u ca dao, (một kho t�ng thi liệu trong ký ức) n�n khi ứng khẩu, c� thể đem ra "lặp lại", gh�p lại với nhau, sửa đổi �t nhiều, thế n�o cho c�u dưới vần được với c�u tr�n, tạo th�nh một b�i ca dao ngắn, vần nhịp chỉnh đốn, th�ch nghi với ho�n cảnh l�c đ�. Ng�y xưa, một trong những điều kiện để được nhận v�o c�c nh�m "h�t quan họ" hay c�c nh�m "h�t phường vải" chẳng hạn, l� phải "thuộc được nhiều c�u ca dao hay d�n ca" (5). Ba l� lối "gợi hứng tại chỗ", như tự mình lắc lư đầu, gật g�, gõ nhịp... lẩm bẩm trong miệng, đi qua đi lại, vung tay vung ch�n... (chưa kể h�t thuốc, ăn trầu, uống rượu...) để tự k�ch th�ch thần kinh, tưởng tượng, cảm x�c, khơi mở kho t�ng thi liệu trong ký ức, khiến cho từng loạt c�u thơ c� thể xuất hiện tu�ng ra dễ d�ng. (6)

Trong c�c cuộc h�t hò ở th�n qu�, thỉnh thoảng cũng c� được một v�i nh� thơ d�n gian c� "thi�n hứng", còn đa số ứng t�c bằng "th�i quen", d�ng tr� nhớ lặp lại những c�u đã thuộc để gh�p th�nh b�i. Hoặc d�ng một kỹ thuật "gợi hứng tại chỗ" mệnh danh l� "thể hứng". Đ� l� lối d�ng những c�u m�o đầu gọi l� "c�u hứng", đưa ra một v�i hình ảnh hay sự việc gì đ�, để g�y kh�ng kh� h�o hứng l�m cho ta cảm thấy th�ch th�, rạo rực muốn ca h�t l�n, muốn bu�ng ra những c�u thơ, b�i h�t, tiếng hò... V� nhất l� cũng để cho nh� thơ d�n gian c� thì giờ suy nghĩ, tìm tiếng bắt vần xuống c�c c�u sau, m� diễn tả tình ý của mình. Đặc điểm của thể hứng l� nội dung những "c�u hứng" m�o đầu ấy kh�ng li�n hệ gì với nội dung của b�i ca dao hay d�n ca. Tỉ dụ như ở c�c c�u sau đ�y:

        Chim xanh ăn tr�i ổi T�u,
        Xứng đ�i cha mẹ gả, ham gi�u l�m chi?
Hay:    S�ng s�u m� sẵn đò ngang,
        C�ng nhiều nh�n ngãi c�ng mang o�n th� !

Những hình ảnh, sự việc dẫn ra ở hai c�u hứng, m�o đầu: "chim ăn ổi", "s�ng s�u sẵn đò" kh�ng li�n quan gì đến việc "xứng đ�i cha mẹ gả", "nhiều nh�n ngãi mang o�n th�". Ngo�i việc gi�p cho c�c nh� thơ d�n gian được k�ch th�ch, được c� thì giờ để tìm ý tìm lời, thì c�c "c�u hứng" m�o đầu còn c� mục đ�ch gi�p cho họ lấy giọng, c� được đ�, m� can đảm đi v�o đề, b�y tỏ những ý nghĩ ri�ng tư của mình ra. Theo lối xử sự giữa nam v� nữ ng�y xưa, nếu bắt đầu m� "tỏ tình" ra một c�ch qu� đường đột, trắng trợn, thì c� thể l�m cho người nghe ngượng ngập, thẹn th�ng. Giả tỉ c� trường hợp một c� g�i muốn n�i với người y�u rằng: "Thương anh đứt ruột m� giả đò l�m ngơ" chẳng hạn. C� ta đã c� sẵn trong đầu "c�u b�t" (8 tiếng) ấy, b�y giờ cần c� một "c�u lục" (6 tiếng) để d�ng l�m "c�u hứng", m� tiếng ch�t c� vần "ò" (để vần với tiếng "đò" ở c�u b�t), gh�p với nhau cho th�nh một c�u ca dao lục b�t. C� g�i ấy c� thể:

   (a) Hoặc tự mình đặt ra một c�u 6 chữ n�o đ�, chỉ cần tiếng ch�t c� vần "ò" để gh�p với "c�u b�t" ấy m� th�i, như:

        Đ�m khuya lặn lội th�n cò,
������� Thương anh đứt ruột, giả đò l�m ngơ.

Ý trong c�u hứng của c� g�i đặt ra: "đ�m khuya lặn lội th�n cò " kh�ng li�n hệ gì với ý ch�nh trong c�u b�t "thương đứt ruột m� giả đò l�m ngơ".

   (b) Hoặc c� g�i lấy lại nguy�n một v�i c�u ca dao đã c� sẵn, m� tiếng ch�t c� vần "ò", như: "Chim chuyền bụi ớt l�u lo", "Đường đi c�ch n�i trở đò", "Đ�m khuya g� g�y � o"... Đem lắp mỗi c�u ấy v�o với "c�u b�t" thì sẽ th�nh nhiều c�u ca dao gi�p cho c� g�i b�y tỏ được tình ý của mình:

        Chim chuyền bụi ớt l�u lo, ���
        Thương anh đứt ruột, giả đò l�m ngơ.
        ...Đường đi c�ch n�i trở đò,
        Thương anh đứt ruột, giả đò l�m ngơ.
        ...Đ�m khuya g� g�y � o,
        Thương anh đứt ruột, giả đò l�m ngơ....

C� những c�u ca dao được d�n gian đem ra d�ng đi d�ng lại, để l�m "c�u hứng" m�o đầu, như:

        Đất Quảng Nam chưa mưa đã thấm,
        Rượu hồng đ�o chưa nhấm đã say.
        Em thương anh, cha mẹ chưa hay, ��
        Như ngọn đ�n giữa gi� biết xoay phương n�o?
        ... Đất Quảng Nam chưa mưa đã thấm, �
        Rượu hồng đ�o chưa nhấm đã say. �������
        Anh h�ng thước lụa trao tay, �������
        Nước non một g�nh vơi đầy ai hay? ���� ...
        ... Đất Quảng Nam chưa mưa đã thấm, �
        Rượu hồng đ�o chưa nhấm đã say.
        Nợ nh� gi�u trả hết lại vay,
        Chớ nợ duy�n chồng vợ, trả mấy ng�n ng�y cho xong.

   (c) Hoặc cũng lấy một c�u lục đã c� sẵn, đem sửa v�i tiếng ch�t cho c� vần "ò", rồi gh�p với "c�u b�t" ý ch�nh của mình. Như lấy c�u lục ở một b�i đã c� sẵn sau đ�y:

        �Thò tay ngắt ngọn rau ng�u,
        Thấy em còn nhỏ giữ tr�u m� buồn.

Đổi "ngọn rau ng�u" th�nh "một ngọn ngò", cho c� vần "ò":

        Thò tay ngắt một ngọn ngò, �������
        Thương anh đứt ruột, giả đò l�m ngơ.

   (d) Lắm khi thể hứng gồm c� nhiều c�u (chớ kh�ng phải chỉ một c�u lục m� th�i), như:

        N�i Ngự Bình trước tròn sau m�o, �
        S�ng An Cựu nắng đục mưa trong.
        Em đ�y vốn thiệt chưa chồng, �����
        N�i cao s�ng rộng, chưa biết gửi lòng nơi m�?
        ... Dừa Bến Tre, ba đồng một tr�i,
        Chuối Bến Tre, một nãi đồng ba. ��
        Ai biểu anh tới đ�y, rồi lại đi xa, ����
        Để em thương, em nhớ, em chờ, em đợi, nước mắt nhỏ sa vắn d�i.�� ... ... ...
        Anh ngồi cầu Trường Tiền, ng� l�n Phu Văn L�u, dạ sầu b�t ng�t,
        Ng� về Thương Bạc thì dạ h�o gan hon, �
        Đo�i nhìn phong cảnh nước non... �
        Bạn chờ qua, qua chờ bạn, biết bao nhi�u nỗi hao mòn thảm thương.

Thỉnh thoảng, cũng c� những c�u hứng m� vừa l� c�u ph� (tả rõ), hay vừa l� c�u tỉ (so s�nh), hay vừa l� c�u ẩn dụ (so s�nh thật k�n đ�o), như:

        Vừa hứng vừa ph�  :

        Rủ nhau xuống bể mò cua,
        Đem về nấu với mơ chua tr�n rừng.
        Em ơi chua ngọt đã từng, ��
        Non xanh nước biếc ta đừng qu�n nhau.

Hai c�u đầu thể hứng, lại vừa tả rõ việc mò cua, h�i mơ để nấu canh "mơ chua", rồi từ chữ "mơ chua" bắt qu�ng li�n hệ xuống ý "chua ngọt" của cuộc tình giữa đ�i lứa, ở hai c�u sau.

        Vừa hứng vừa tỉ :

        S�ng kia c� lạ chi cầu,
        Đấy đ�y c� lạ gì nhau m� nhìn.

C�u hứng đưa ra hình ảnh "s�ng kh�ng lạ chi cầu" để li�n hệ với ý ở c�u dưới: cũng như " đ�y v� đ� c� lạ chi nhau".

        Vừa hứng vừa ẩn dụ :

        Đất Quảng Nam chưa mưa đã thấm,
        Rượu hồng đ�o chưa nhấm đã say.
        Lòng ta như ch�n rượu đầy,
        Lời thề nhớ ch�n rượu nầy bạn ơi !

Giữa ý của hai c�u hứng v� ý ở hai c�u tiếp theo, c� một li�n hệ gi�y chuyền: li�n hệ giữa hình tượng "rượu hồng đ�o" với "ch�n rượu đầy", "lời thề nhớ ch�n rượu nầy". Dư �m của ý "rượu chưa nhấm đã say" b�ng bạc suốt b�i, dẫn khởi đến "cuộc tình duy�n mới gặp m� đã say m�", m� đã bu�ng "lời thề chung thủy ngay tại đ�m nay". Một ẩn dụ cấu tr�c nhẹ nh�ng m� tha thiết.

Đặc t�nh của những "c�u hứng" l� ý b�ng quơ, rời rạc, kh�ng ăn nhập gì với nội dung b�i d�n ca hay b�i ca dao. Đ� l� những "c�u thơ v� nghĩa" so với to�n b�i. Trong "đồng ca" (b�i h�t trẻ em) cũng c� những "c�u thơ v� nghĩa", đ� l� những đoạn c�u c� vần, c� nhịp điệu cho dễ nhớ, với mục đ�ch vừa dạy từ ngữ vừa mua vui cho trẻ em. Như:

        Trời mưa l�m d�m,
        C�y tr�m c� tr�i,
        Con g�i c� duy�n,
        Đồng tiền c� lỗ, ������
        B�nh nổ thì ngon,
        B�nh đòn thì b�o,
        C�i k�o thợ may,
        C�i c�y l�m ruộng...

Thi ca nước Ph�p, v�o c�c thế kỷ XII, XIII, cũng c� một loại thơ gọi l� "fatrasie" trong mỗi b�i thơ, trừ c�u đầu v� c�u ch�t, tất cả những c�u kh�c đều b�ng quơ, v� nghĩa. V�o cuối thế kỷ XIX, Paul Verlaine chủ trương "thơ trước hết l� nhạc", c�u thơ chỉ cần gi�u �m hưởng, nhạc điệu, c� khi bất chấp ý nghĩa, chẳng hạn như ở b�i Pantoum n�glig�, 16 c�u to�n l� "v� nghĩa" (hay c� một ý nghĩa m� kh�ng ai thấy được), xin tr�ch 4 c�u đầu, dịch ra tiếng Việt như sau:

        Ba c�i b�nh pa-t� nhỏ, chiếc �o sơ-mi của t�i ch�y.
        Cha sở kh�ng th�ch ăn xương.�
        C� em bạn dì t�i t�c v�ng, t�n l� Ursule.
        Ch�ng ta di cư sang Les Palaiseaux ! (7)

Gần đ�y, ở nước Anh cũng c� phong tr�o thơ "nonsense" (v� nghĩa), với những c�u nội dung chẳng ăn nhập v�o đ�u cả. Thi ca Ph�p, cũng đã ph�t sinh khuynh hướng chủ trương thơ chỉ cốt ở ngữ thuật (jeu du langage) hơn l� ý nghĩa, lời thơ c� nghĩa hay v� nghĩa cũng kh�ng quan trọng gì. Đến mức Paul Val�ry phải nhắc đi nhắc lại rằng: "Một thi nh�n kh�ng c� tr�ch vụ cảm thấy trạng th�i n�n thơ: điều đ� l� một việc ri�ng tư của anh. M� tr�ch vụ của thi nh�n l� tạo ra c�i trạng th�i n�n thơ ấy nơi những người kh�c. (8)

Nhưng bản thể c�c "c�u hứng v� nghĩa" trong ca dao ta c� phần kh�c hơn. Trước khi v�o đề, d�n gian ta d�ng những "c�u hứng" gợi l�n những hình tượng, sự việc, tình ý r�t ra từ thi�n nhi�n xung quanh họ, từ cuộc sống hằng ng�y của ch�nh họ, từ ký ức chung của d�n tộc Việt Nam, n�n đã g�y được những tiếng vang dội s�u rộng trong tiềm thức của người nghe, g�y được trong t�m tư người nghe một cảm gi�c th�ch th�, một sự biểu đồng tình tha thiết để sẵn s�ng tiếp nhận sự truyền đạt một c�ch dễ d�ng. C�c "c�u hứng" l� những tiếng nhạc dạo trước khi đ�n, l� b�i h�t rao tuồng để mở m�n trong một tuồng h�t bộ ng�y xưa, l� một tập qu�n trong việc ứng xử "lịch sự" l�u đời của xã hội Việt Nam. Kh�c hẳn với c�c c�u "thơ v� nghĩa" T�y phương ; c�c "c�u hứng" của d�n ta d� c� gi� trị nghệ thuật, t�m lý, xã hội thế n�o, cũng vẫn kh�ng t�ch ra khỏi c�i nhu cầu đ�ng g�p, chuẩn bị cho tr�ch vụ ch�nh yếu của nh� thơ l� truyền đạt tình ý cho những người đang nghe.

Phương thức truyền đạt tình ý của "thơ viết" v� của "thơ truyền khẩu" c� phần kh�c nhau. C�c thi nh�n "thơ viết" phải theo phương thức ngữ ph�p h�a ng�n từ, còn c�c nh� "thơ truyền khẩu" lại theo phương thức kịch trường h�a ng�n từ. Nh� thơ "chữ viết" c� thì giờ nhiều, n�n thường cặm cụi gò dũa c�u văn theo ngữ ph�p b�c học qui tắc chật hẹp, kh� khăn, còn nh� thơ "truyền khẩu" phải ứng t�c tức khắc v� ngay tại chỗ, trước quần ch�ng: họ vừa l� t�c giả, vừa l� người diễn xướng, vừa l� kịch nh�n, trọn quyền linh động tận dụng mọi nghệ thuật ng�n từ của m�n kịch. M� kịch trường ở đ�y ch�nh l� s�n khấu đại qui m� của cuộc sống xã hội hiện hữu hằng ng�y của d�n gian ta. Do đ�, nghệ thuật thi ca truyền khẩu rất phong ph�, linh động, lu�n lu�n bu�ng t�ng theo c�c biến chuyển của xã hội, m� đổi mới kh�ng ngừng. Gi�o sư Paul Zumthor đã kết luận: "Ch�nh vì c�c lẽ ấy, n�n thi ca truyền khẩu thường bao gồm nhiều qui tắc v� phức tạp hơn thi ca s�ng t�c bằng chữ viết: ở những xã hội m� tập tục truyền khẩu chiếm ưu thế, thì thi ca truyền khẩu c� một nghệ thuật đi�u luyện hơn phần đ�ng c�c t�c phẩm s�ng t�c bằng văn tự." (9)

Nhưng đừng qu�n rằng nghệ thuật thi ca truyền khẩu vốn l� nghệ thuật của "ng�n ngữ-ký ức". V� muốn cho người nghe ghi nhớ dễ d�ng v� bền l�u v�o ký ức, thì c�c c�u thơ truyền khẩu phải ph� hợp với: nhịp vận động của th�n hình con người, phải vang l�n những �m hưởng của tiếng n�i con người, phải d�ng tưởng tuợng con người m� nhìn hình tượng, d�ng lý tr� con người m� thấy được sự chuyển ý của văn ảnh c� đọng, dẫn khởi. Như vậy, "ng�n ngữ-ký ức" đòi hỏi trong c�c b�i ca dao, d�n ca một cấu tr�c x�y dựng tr�n ba yếu tố: nhịp điệu, �m hưởng v� hình tượng văn ảnh. Vấn đề được đặt ra ở đ�y l� ng�n ngữ Việt Nam ch�ng ta c� cung cấp cho thi ca truyền khẩu (ca dao, d�n ca) đầy đủ c�c yếu tố đặc th� ấy kh�ng? Nếu c� thì đến mức độ n�o?

A.    Nhịp điệu

Jean-Louis Joubert, gi�o sư đại học Sorbonne tại Paris, trong t�c phẩm La Po�sie, c� giảng rõ: "Cấu tr�c thi ca truyền khẩu đã bắt chước theo c�c điệu bộ nhịp nh�ng của th�n hình, lối ng�m dằn từng tiếng th�ch hợp với sự h� hấp. Những phương thức đơn giản, trong đ� điệu bộ v� ng�n ngữ chồng chất l�n nhau (từng loạt c�c c�u c�n bằng v� mất c�n bằng, điệp ngữ v� đối ngẩu, đối xứng v� xen kẽ, song song v� bắt vần, v.v...) tạo điều kiện dễ d�ng cho sự ghi nhớ v� bảo đảm sự biểu đồng tình của cử tọa, đồng thời cho ph�p s�ng tạo, bằng ngữ thuật, những tạp diễn v� hạn định. Sự hội nhập điệu bộ v� th�n hình v�o thi ca vẫn tiếp diễn d� l� khi người ta rời xa lối truyền khẩu. Ch�nh sự hội nhập nầy đã cấu tạo n�n nhịp điệu, nhờ đ� thơ được nổi bật hơn c�c c�ng trình tạo t�c kh�c bằng chữ viết (10).

Sự hội nhập ng�n ngữ thi ca truyền khẩu với điệu bộ của th�n hình con người, được thể hiện trong ng�n ngữ Việt qua sự vận dụng những tiếng k�p đ�i v� lối xen kẻ nhiều tiếng k�p đ�i với nhau. Ng�n ngữ Việt vốn c� rất nhiều tiếng k�p đ�i, l� những tiếng gồm c� hai tiếng gh�p lại: hoặc 2 tiếng đều c� nghĩa, như: rụng rời, n�ng nực, ng�y th�ng, mờ mờ, nhẹ nhẹ..., hoặc 1 tiếng c� nghĩa với 1 tiếng v� nghĩa, như: lạnh lẽo, buồn bã, ngại ng�ng (lẽo, bã, ng�ng: l� những tiếng v� nghĩa), hoặc 2 tiếng đều v� nghĩa, như: thong dong, khắc khoải, tồng ngồng, l�i th�i, v.v... D�n ta c� khuynh hướng d�ng những rất nhiều tiếng k�p đ�i thay cho những tiếng đơn đồng nghĩa, để cho c�u n�i được nhịp nh�ng, c�n đối. Thay vì n�i "ao thu lạnh" chẳng hạn, thì người ta lại th�ch n�i "ao thu lạnh lẽo"; đ�ng lẽ chỉ n�i "gặp nhau vui lắm " thì lại th�ch n�i "gặp nhau vui vẻ lắm". Thay vì n�i "đi chậm" thì lại th�ch n�i "đi chậm chạp". C�c tiếng "lạnh, vui, chậm" c� nghĩa, c�c tiếng "lẽo, vẻ, chạp" l� những tiếng v� nghĩa, chỉ th�m v�o nghe cho nhịp nh�ng, �m tai, hay cho ý nghĩa được tinh tế hơn. C�c c�u thơ Việt được nhịp nh�ng c�n đối l� do d�n gian đem những tiếng k�p đ�i xen kẽ lại với nhau, để tạo th�nh hai vế đối xứng nhau, như:

        Nh�n duy�n th�ng đợi năm chờ,
        Ngồi buồn l�m một b�i thơ kh�ng chồng.

Hai tiếng k�p đ�i "năm th�ng" v� "đợi chờ" xen kẽ nhau th�nh: "th�ng đợi / năm chờ".

        Hơn nhau tấm �o, manh quần,
        Thả ra mình trần, ai cũng như ai.

Hai tiếng k�p đ�i "tấm manh", "a� quần" xen kẽ nhau th�nh: "tấm �o / manh quần".

        Gẫm xem thế sự thăng trầm,
        Xưa �ng mặt trắng, nay thằng mặt trơn.

Ba tiếng k�p đ�i "xưa nay", "�ng thằng" v� "trắng trơn" xen kẽ nhau th�nh: " Xưa �ng mặt trắng / nay thằng mặt trơn" .

        S�ng Ng�n h� dễ bắt cầu,
        Trai thương vợ cũ, g�i sầu chồng xưa.

Bốn tiếng k�p đ�i "trai g�i", "thương sầu", "vợ chồng" v� "cũ xưa" xen kẽ th�nh hai vế đối xứng: "Trai thương vợ cũ / g�i sầu chồng xưa"...

Như thế, d�ng tiếng k�p đ�i, v� xen kẽ c�c tiếng k�p đ�i l� hai phương thức căn bản để x�y dựng nhịp điệu trong thơ truyền khẩu Việt Nam. C�c nh� thơ "chữ viết" nổi tiếng nước ta, trước đ�y, cũng thường vận dụng c�c tiếng k�p đ�i nầy. Chẳng hạn như trong Đoạn Trường T�n Thanh, đoạn "Kiều đi Thanh Minh" (c�u 43 đến c�u 142), Nguyễn Du đã d�ng tr�n 30 tiếng k�p đ�i (n� nức, dập dìu, ngổn ngang, t� t�, thơ thẩn, thanh thanh, nao nao, nho nhỏ, s� s�, dầu dầu, x�n xao, mong manh, dầm dầm, đau đớn, mòn mỏi, ph�i pha, gặp gỡ, lầm rầm, nhỏ to, m� mẩn, tần ngần, ủ dột, vắn d�i, nặng nề, �o �o, r�nh r�nh, hiển hiện, lai l�ng, bồi hồi, d�ng dằng, gần gần, con con,... ) v� mười mấy lối xen kẽ c�c tiếng k�p đ�i th�nh những tiếng k�p bốn, ph�n ra l�m hai vế đối xứng nhau:

        "Tr�m bình", "gảy rơi" > Thì đ� tr�m gảy, bình rơi bao giờ.
        "Thỏ �c", "lặn t�" > Trải bao thỏ lặn, �c t�.
        "Ngựa xe", "�o quần", "nước nen" > Ngựa xe như nước, �o quần như nen.
        "Thoi v�ng", "tro tiền", "v� giấy", "rắc bay" > Thoi v�ng v� rắc, tro tiền giấy bay.
        "Ng�y xanh", "m� hồng", "mòn mỏi", "ph�i pha" > Ng�y xanh mòn mỏi, m� hồng ph�i pha...

Văn chương Đ�ng phương ch�ng ta thi�n nhiều về sự đối xứng, nhưng trong thi văn Ph�p, "sự đối xứng hay đối ngẫu... l� một kh�i niệm mới xuất hiện gần đ�y, m� tu-từ học cổ-điển kh�ng hề lưu t�m đến. Khi Malherbe dịch c�c b�i thơ Thi Thi�n trong Th�nh Kinh (Psaumes), hình như �ng kh�ng nhận thấy rằng căn bản thi ca Th�nh Kinh đã x�y dựng tr�n những đối ngẫu, v� trong bản dịch sang Ph�p văn, �ng kh�ng hề tìm c�ch phục nguy�n lại c�c lối đối ngẫu ấy." (11)

C�c văn thi sĩ Ph�p cũng kh�ng hay d�ng đến lối đối ngẫu trong c�c t�c phẩm, v� trong lý luận văn học của họ cũng kh�ng b�n cập đến vấn đề ấy. Tuy vậy, d�n gian Ph�p vẫn theo lối đối ngẫu m� s�ng tạo ra nhiều c�u ca dao, tục ngữ� c�n đối, như: "Loin des yeux, loin du coeur" (xa mặt, c�ch lòng), "Apr�s la pluie, le beau temps" (hết mưa, lại nắng), "Tel p�re, tel fils" (cha n�o, con nấy), "Oeil pour oeil, dent pour dent" (ăn miếng, trả miếng), "La parole est d'argent, le silence d'or" (lời n�i l� bạc, im lặng l� v�ng)... Như thế, l� vì d�n gian Ph�p (cũng như d�n gian Việt hay bất cứ sắc d�n n�o kh�c tr�n thế giới) bao giờ cũng theo qui luật tự nhi�n chung của con người về nhịp thở v� về nhịp cử động th�n hình, m� cấu tạo ra những c�u nhịp nh�ng, đối xứng, để cho dễ n�i, dễ thuộc, dễ nhớ.

B.    �m hưởng

�m hưởng ở thi ca truyền khẩu Việt Nam lu�n lu�n được gắn liền với nhịp điệu. �m hưởng ở đ�y chỉ chung tiếng n�i, lời n�i của con người Việt Nam, một tiếng n�i c� �m vận v� �m thanh thật phong ph�. �m vận chỉ những tiếng c� vần với nhau. Hai tiếng vần với nhau trước hết phải c� một �m căn bản như nhau (�m căn bản l� những �m chưa c� dấu giọng), rồi nếu th�m c�c dấu giọng thì ta sẽ c�:

Vần bằng l� những tiếng c� dấu huyền v� tiếng kh�ng dấu vần với nhau, tỉ dụ như "mơ" vần với "m", với "c", với "tơ" (c�ng một �m căn bản "ơ"); "ti" vần với "mai", với "đ�i" (c�ng một �m căn bản "ai"); "thương" vần với "lường", với "chương" (c�ng một �m căn bản "ương")...

Vần trắc l� những tiếng c� dấu sắc, dấu ngã, dấu hỏi, dấu nặng vần với nhau, tỉ dụ như "c" vần với "th", với "mõ", với "h" (c�ng một �m căn bản "o"); "c�ng" vần với "hảng", với "lãng", với "trạng" (c�ng một �m căn bản "ang"), v.v...

Về vị tr� của vần trong c�u, ta c� hai loại: Cước vận (cước = ch�n), l� những vần gieo v�o c�c tiếng ở cuối c�u, v� y�u vận (y�u = lưng), l� những vần gieo v�o tiếng ở lưng chừng c�u. �m vận cũng l� một loại điệp ngữ (điệp �m) lặp lại nhiều lần c�c �m căn bản c�ng một thanh.

Đặc điểm của ca dao Việt l� vừa c� cước vận vừa c� y�u vận.

Ca dao T�u chỉ c� cước vận, kh�ng c� y�u vận, như ở b�i ca dao Tịnh Nữ trong Quốc phong, (Kinh Thi) dưới đ�y:

        Tịnh nữ kỳ th�,
        Sĩ ngã vu th�nh ngu.
        �i nhi bất kiến,
        Tao thủ trì tr�.

(Dịch: C� g�i dịu d�ng xinh đẹp, đợi ta ở g�c th�nh. Y�u m� kh�ng được gặp, Ta xoa đầu băn khoăn).

So với b�i ca dao Việt sau đ�y:

        Chồng gì anh, vợ gì t�i ?
        Chẳng qua l� c�i nợ đời chi đ�y !
        Mỗi người một nợ cầm tay,
        Ng�y xưa nợ vợ, ng�y nay nợ chồng.

Ta thấy b�i ca dao T�u 4 c�u chỉ c� 3 tiếng cước vận m� th�i: "th�", "ngu" v� "tr�" ở cuối c�c c�u 1, 2 v� 4. Còn b�i ca dao Việt cũng 4 c�u m� c� đến 5 tiếng bắt vần: Cước vận: "đ�y" vần với "tay". Y�u vận: "t�i" vần với "đời", "tay" vần với "nay".

Ch�ng t�i nhận thấy c� nhiều y�u vận trong "thơ truyền khẩu" của d�n Mạ (Thượng Việt ở Cao nguy�n Trung phần) v� d�n L�o, [m� theo Bình Nguy�n Lộc, t�c giả Nguồn gốc Mã Lai của d�n tộc Nam, đ� l� những sắc d�n vốn c�ng một t�ng Malai (Malaya) với ch�ng ta. (12)] thơ bình d�n L�o sau đ�y:

        Xa th�, xa gio, mư xay kậu,
        Khạ pha chậu khỏ kao tam nan.
        P�n ni than xưp ma t� koòn, �������
        Vậu t� boòn pang Khun Bu R�m.� �

(Dịch: Chắp tay l�n tr�n k�nh cẩn thưa: Kẻ t�i tớ nầy xin kể lại sau đ�y, theo cổ t�ch từ đời xưa truyền lại về đoạn vua Khun Bu R�m). � Bốn c�u m� c� đến 6 tiếng y�u vận: "kậu" vần với "chậu"; "nan" vần với "than"; "koòn" vần với "boòn".

V� ở b�i ca dao Mạ:

        Oi puu' taany mang, ���������
        Oi pang taany ngai,
        Oi đờ-rai
        taany ngai bii� mhoo...

(Dịch tho�t: Chăn "puu' " dệt ban tối, chăn "pang" dệt ban ng�y, chăn "đờ-rai" dệt ng�y lẫn đ�m). Bốn c�u c� đến 6 tiếng y�u vận: "mang" vần với "pang"; "ngai" vần với "đờ-rai", v� "ngai".

C� người cho rằng �m vận hiện nay trong thi ca truyền khẩu Việt Nam l� kết quả của sự hòa nhập giữa cước vận T�u với y�u vận L�o, Mạ... N�i một c�ch ch�nh x�c hơn nữa, (vẫn theo Bình Nguy�n Lộc) Việt Nam vốn c�ng chung một t�ng Malai (Malaya) với L�o, Mạ, n�n tất nhi�n đã c� sẵn y�u vận, về sau chịu ảnh hưởng văn h�a T�u, n�n ch�ng ta thu nhận th�m cước vận (tỷ lệ : 1 cước vận / 2 hoặc 3 y�u vận) để tạo ra c�c thể lục b�t, song thất lục b�t ng�y nay. Nhìn chung, "điệp ngữ" (điệp �m) của �m vận đã hòa nhập với "đối xứng" của nhịp điệu, khiến cho ng�n ngữ Việt Nam trong thi ca truyền khẩu nghe du dương, �m tai, gi�u nhạc t�nh. M� nhạc t�nh, theo định nghĩa nguy�n thủy trong văn học T�y phương l� bản thể của thi ca: "Thơ l� nhạc của t�m hồn" (Voltaire), "Thơ l� tham vọng của ng�n từ muốn chứa đựng cho được nhiều ý hơn, pha trộn với nhiều nhạc hơn, m� ng�n ngữ th�ng thường kh�ng chứa đựng v� kh�ng thể chứa đựng được" (Val�ry) (13).

�m thanh trong ng�n ngữ Việt chỉ chung c�c giọng d�i, giọng ngắn của tiếng Việt. Tiếng Việt c� nhiều dấu, ph�n th�nh hai loại. Tiếng bằng, giọng �m dịu, c� thể k�o d�i ra được, như những tiếng kh�ng c� dấu v� những tiếng c� dấu huyền. Tiếng trắc, giọng ngắn ngủn, kh�ng đọc d�i ra được, như những tiếng c� chữ c, ch, p, t đứng ở cuối tiếng v� những tiếng c� dấu sắc, nặng, hỏi, ngã. Trong những tiếng bằng v� tiếng trắc, tiếng n�o cũng c� thứ tiếng bổng v� tiếng chìm. Tiếng bổng trong tiếng bằng l� những tiếng thượng bình thanh, kh�ng c� dấu; tiếng chìm trong tiếng bằng l� tiếng hạ bình thanh, c� dấu huyền. Tiếng bổng trong tiếng trắc l� những tiếng c� dấu sắc v� dấu ngã, tiếng chìm l� những tiếng c� dấu hỏi v� dấu nặng. Những tiếng bằng, trắc ở ca dao thường d�ng để ngắt đoạn trong c�u, nhấn mạnh v�o c�c nhịp điệu.

Thể thơ l� hậu quả của sự hòa nhập giữa nhịp điệu, �m thanh v� �m vận. Ch�nh c�ch ngắt c�u, ngắt đoạn (nhịp điệu), c�ch đặt v� đổi chỗ c�c tiếng trắc, tiếng bằng v�o tiếng ch�t của mỗi đoạn c�u (�m thanh) v� � c�ch gieo y�u vận hay cước vận v�o những vị tr� n�o trong to�n b�i (�m vận), đã quyết định cấu tr�c của c�c "thể thơ" trong thi ca truyền khẩu d�n ta. C�c nh� văn học thường ph�n thi ca truyền khẩu ra th�nh ba thể: thể n�i lối (những c�u từ 2 đến 5, 6 tiếng), thể lục b�t ch�nh thức (cứ 1 c�u lục 6 tiếng v� một c�u b�t 8 tiếng đi cặp với nhau) v� thể song thất lục b�t ch�nh thức (gồm c� hai c�u thất, mỗi c�u 7 tiếng v� hai c�u lục b�t). Luật thơ do c�c nh� Nho ng�y xưa đã căn cứ v�o những c�u thơ lục b�t hay song thất lục b�t đã th�nh hình m� đặt ra luật thơ với nhiều qui lệ, song ch�nh yếu ta nhận thấy c�:

1. Tiết tấu (c�ch ngắt đoạn trong c�u): mỗi c�u c� ba hay 4 đoạn, mỗi đoạn c� 2 hay 3 tiếng, qui định như sau: c�u thất 3/2/2, (kh�c với c�c c�u thất trong thơ T�u 2/2/3); c�u lục 2/2/2, c�u b�t 2/2/2/2. Trong mỗi c�u, những tiếng ch�t c�c đoạn phải lần lượt trắc rồi bằng, hay bằng rồi trắc, một qui luật m� Ho�i Thanh gọi l� "luật đổi thanh" (Thi nh�n Việt Nam, 1942) theo biểu đồ sau đ�y:

        Thể lục b�t

           C�u lục���������� 0 B / 0 T / 0 B
           C�u b�t����� �� 0 B / 0 T / 0 B1 / 0 B2

        Thể song thất lục b�t

           C�u thất 1���� 0 0 T / 0 B / 0 T
           C�u thất 2���� 0 0 B /� 0 T / 0 B
           C�u lục��� � 0 B /� 0 T / 0 B
           C�u b�t     0 B /� 0 T /� 0 B1 / 0 B2

Ch� th�ch: 0 = tiếng kh�ng buộc trắc hay bằng; 0 B1 / 0 B2 = hễ B1 thanh bằng bổng, kh�ng c� dấu, thì B2 thanh bằng chìm, c� dấu huyền, v� ngược lại.

Xin lưu ý : "Luật đổi thanh" ấy cũng kh�ng khỏi c� một v�i biến dạng, ngoại lệ:

   a. Biến dạng: �đoạn cuối c�c c�u b�t, theo đ�ng "luật đổi thanh" phải� l� 0 B, nhưng lại l� 0 B1 / 0 B2. Vì sao? Theo thiển ý ch�ng t�i, thì hai đoạn 0 B1 / 0 B2 nầy c� thể coi như l� một đoạn c� tiếng ch�t thanh bằng 0 B, nhưng tiếng ch�t thanh bằng B ấy được k�o d�i ra để chấm dứt c�u v� chấm dứt theo hai �thuật kết c�u� như sau:

Hoặc ng�n kết, k�o d�i thanh bằng ra qua một (v�i) tiếng thanh bằng kh�c, để kết c�u theo c�ng thức (B b B), v� dụ:

        Người kh�n, ai chẳng n�ng niu
        Hoa thơm, ai chẳng chắt chiu (B) tr�n (b) c�nh (B)
        ... H�t c�u đẹp cốm, tươi hồng,
        H�t c�u n�n vợ, n�n chồng (B)

Hoặc l�y kết, đưa giọng l�n cao l�y qua một tiếng trắc, rồi trở lại thanh bằng để kết c�u theo c�ng thức (B t B):

        Con cò trắng to�t như b�ng
        Muốn nghe h�t đ�m, m� kh�ng (B)
        ... Ước gì em biến n�n chum,
        Anh biến n�n nước, ta đ�m (B) lấy (t) nhau (B).

Ng�n kết theo c�ng thức (B b B): "chiu tr�n c�nh", "chồng cò ơi"; l�y kết theo c�ng thức (B t B): "kh�ng chịu v�o", "đ�m lấy nhau", l� những �thuật kết c�u�, �kết b�i� thường d�ng trong cổ nhạc, trong d�n ca ch�ng ta. Như thế, c�c tiếng ch�t ở hai đoạn cuối c�c c�u b�t, nếu tiếng trước thanh bằng (B1) kh�ng dấu (bằng bổng), thì bắt buộc tiếng sau (B2) phải thanh bằng c� dấu huyền (bằng chìm), v� ngược lại. Đ� cũng l� một hình thức "đổi thanh", song mức độ nhẹ hơn: vẫn ở trong thanh bằng, m� k�o d�i từ thanh bằng bổng xuống thanh bằng chìm, hay ngược lại từ thanh bằng chìm l�n thanh bằng bổng.

   b. Ngoại lệ: Tiếng ch�t của đoạn đầu c�u thất (trong song thất lục b�t), theo "luật đổi thanh" phải l� tiếng trắc, nhưng nếu hai c�u bảy đặt th�nh 2 c�u s�ng nhau, (hoặc đối, hoặc kh�ng đối), thì c� thể l� một tiếng thanh bằng, như ở c�c b�i dưới đ�y:

        Của của trời (B) ai chăm (B) thì được (T)
        Việc việc đời (B) ai trước (T) thì hơn (B)
        Cứ gì (B) ăn trắng (T) mặc trơn (B)
        L�m người (B)� g�nh v�c (T) giang sơn (B1 ) mới l� (B2).
        ... Tr�i lòn bon (B) trong tròn (B) ngo�i m�o (T)
        Anh nhớ em (B) ruột h�o (T) gan x�u (B)
        Đ� đ�y (B) c�ch trở (T) vì đ�u (B)
        Tr�ch sao (B) con tạo (T) cơ cầu (B1) đa đoan (B2).

2. C�ch gieo vần trong thi ca truyền khẩu ta theo như trong c�c biểu đồ dưới đ�y:

Thể lục b�t

        C�u lục�������� �0 B��� 0 T�� 0 B (cvb)
        C�u b�t��� ���� 0 B��� 0 T � 0 B1 (yvb)���� 0 B2 (cvb)

Thể song thất lục b�t

        C�u thất 1���� 0 0 T�� 0 B ��������� 0 T (cvt)
        C�u thất 2���� 0 0 B���� 0 T (yvt) � 0 B (cvb)
        C�u lục����������� 0 B���� 0 T ������ 0 B (cvb)
        C�u b�t� � 0 B���� 0 T 0 B1 (yvb)�� 0 B2 (cvb)

Ch� thích:  (cvb) = cước vận bằng; (cvt) = cước vận trắc; (yvb) = y�u vận bằng; (yvt) = y�u vận trắc.

B�i ca dao hay d�n ca n�o cấu tr�c đ�ng y như tr�n thì gọi l� "lục b�t ch�nh thức" hay "song thất lục b�t ch�nh thức". Còn b�i n�o tuy c�ch ngắt đoạn trong c�u v� c�ch gieo vần đ�ng luật, nhưng số tiếng trong mỗi đoạn kh�ng đ�ng với số tiếng luật thơ qui định, thì gọi l� "lục b�t biến thức", như:

        N�i lời / anh chẳng / giữ lấy lời
        Nay anh đang t�m / phụ bạc / để tiếng đời / cười ch�. (11 tiếng)

(C�u lục đáng lẽ 6 tiếng thì lại 7 tiếng, c�u b�t đ�ng lẽ 8 tiếng thì lại 11 tiếng)

Hay gọi l� "song thất lục b�t biến thức", như:

        Ới anh ơi / c� xa / thì xa cho mất
        C� lại gần / thì th�nh thất / th�nh gia
        Em khuy�n anh lại lại / qua qua
        Một mai em biết / đ�nh la / tội tình. (10 tiếng)

(Đ�ng lẽ 7 tiếng, m� c�u thất một lại 9 tiếng, c�u thất hai lại 8 tiếng, c�u lục đ�ng lẽ 6 tiếng thì lại 8 tiếng, c�u b�t đ�ng lẽ 8 tiếng thì lại 10 tiếng).

B�i Kỷ, trong Quốc Văn Cụ Thể, c� nhận x�t rằng: "Lục b�t l� lối văn ri�ng của ta m� T�u kh�ng c�. Ph�t nguy�n bởi những c�u ca dao, phương ng�n, ngạn ngữ đời cổ, kỳ thủy mỗi c�u hoặc 4 chữ, hoặc 5, hoặc 6...chữ, kh�ng nhất định, dần dần dựa v�o �m tai, đọc ra thuận miệng, th�nh ra một thứ �m điệu... cứ c�u 6 tiếng tiếp theo lu�n c�u 8 tiếng, cho n�n gọi l� lục b�t". (14) Theo chủ trương nầy (c�c c�u thể "n�i lối" nguy�n thủy đã theo thời gian chuyển h�a dần dần th�nh ra c�c thể "lục b�t" v� thể "song thất lục b�t"), ch�ng t�i xin đưa ra một giả thiết về lai lịch của ca dao, theo một qu� trình chuyển h�a tưởng tượng, như sau:

   a.      Chuyển h�a từ "n�i lối" th�nh ra "lục b�t" : Lấy một b�i ca dao thể "n�i lối" 4 c�u dưới đ�y:

        1. B�ng khu�ng, b�t ng�t,
        2. Em h�t hữu tình.
        3. Căn duy�n trời định,
        4. Hai đứa mình gặp nhau.

Nếu gh�p c�u 1 với c�u 2 lại với nhau v� bỏ hai tiếng "b�t ng�t", ta c� một "c�u lục", gh�p c�u 3 v� c�u 4 lại, ta c� một "c�u b�t", cả hai c�u lục v� b�t hợp lại th�nh một cặp "lục b�t biến thức":

        B�ng khu�ng em h�t hữu tình,
        Căn duy�n trời định hai đứa mình gặp nhau.

   b.       Chuyển h�a từ "n�i lối" th�nh ra "song thất lục b�t" : Lấy một b�i ca dao gồm c� s�u c�u (4 c�u n�i lối v� 2 c�u lục b�t) sau đ�y:

        1. Gi� hiu hiu, �������
        2. Ch�n chiều ruột thắt, ����
        3. Nhìn sao b�n bắc,
        4. Nước mắt chảy b�n đ�ng
        5. Ai xu�i chi vợ vợ, chồng chồng,
        6. Kh�ng biết đ�y với đ�, gi�y tơ hồng c� xe?

Nếu gh�p c�u 1 v� c�u 2 với nhau, ta c� c�u thất thứ nhất, gh�p c�u 3 v� c�u 4 với nhau, ta c� c�u thất thứ nhì. Hợp lại với c�u 5 v� c�u 6 l� hai c�u "lục b�t", ta sẽ c� b�i "song thất lục b�t biến thức":

         Gi� hiu hiu, ch�n chiều ruột thắt,
         Nhìn sao b�n bắc, nước mắt chảy b�n đ�ng.
         Ai xu�i chi vợ vợ, chồng chồng, ����
         Kh�ng biết đ�y với đ�, gi�y tơ hồng c� xe?

Hoặc từ b�i ca dao 6 c�u sau đ�y:

        1. Dãy dọc tòa ngang, �����
        2. Gi�u sang c� số.
        3. Kim Long Nam Phổ,�
        4. Nước đổ về Sình
        5. Như đ�i lứa mình ch�t nghĩa ba sinh, ��
        6. C� l�m răng đi nữa cũng kh�ng dứt tình bỏ nhau!

Nếu gh�p c�u 1 với c�u 2 th�nh c�u thất thứ nhất, gh�p c�u 3 với c�u 4 th�nh c�u thất thứ nhì, hợp lại với c�u 5 v� c�u 6, ta c� b�i thể "song thất lục b�t biến thức":

         Dãy dọc tòa ngang, gi�u sang c� số. ��
         Kim Long Nam Phổ, nước đổ về Sình. �����
         Như đ�i lứa mình ch�t nghĩa ba sinh,
         C� l�m răng đi nữa cũng kh�ng dứt tình bỏ nhau!

   c.     Chuyển h�a từ "n�i lối" th�nh ra thể "thất thất b�t". Trong khi tham khảo một số s�ch sưu tập về ca dao như Văn nghệ d�n gian Quảng Nam Đ� Nẳng của Nguyễn Văn Bốn, Tục ngữ Ca dao của L� Gia, D�n ca Ki�n Giang của Lưu Nhất Vũ, Nguyễn Văn Hoa, L� Giang, Việt Nam văn học bình d�n của Nguyễn Tr�c Phượng... ch�ng t�i thấy c� tr�n 100 b�i� ca dao, mỗi b�i gồm c� hai c�u thất (7 tiếng) v� một c�u b�t (8 tiếng) m� ch�ng t�i gọi l� "thất thất b�t", theo cấu tr�c b�i sau đ�y:

         Thiếp xa ch�ng, h�i d�u qu�n giỏ, (7 tiếng)
         Ch�ng xa thiếp, cắt cỏ qu�n liềm, �� (7 tiếng)
         Xuống s�ng g�nh nước hũ chìm gi�ng tr�i. (8 tiếng)

Cũng theo giả thiết tr�n, lấy b�i thể "n�i lối" 6 c�u sau đ�y:

        1. Canh hãy còn khuya,
        2. Đường về thăm thẳm.
        3. Đ�i ta xứng lắm,
        4. Như k�p với đ�o.
        5. H�t chơi cho giải muộn,
        6. Lẽ n�o l�m ngơ.

Nếu gh�p c�u 1 v� 2, th�nh c�u thất thứ nhất, gh�p hai c�u 3 v� 4, th�nh c�u thất thứ nhì, rồi gh�p hai c�u 5 v� 6 th�nh c�u b�t, ta sẽ c� một b�i thể "thất thất b�t" biến thức như sau:

         Canh hãy còn khuya, đường về thăm thẳm, ������
         Đ�i ta xứng lắm như k�p với đ�o.�
         H�t chơi cho giải muộn, lẽ n�o l�m ngơ.

V� dưới đ�y, ch�ng t�i xin tr�ch một số c�u ca dao thể "thất thất b�t" biến thức tr�ch từ c�c s�ch sưu tập về ca dao kể tr�n, để qu� vị độc giả rộng đường nhận x�t:

        1. T�i đi ngang nh� m�,
        2. C�i tay t�i x�, c�i cẳng t�i quì.
        3. Lòng thương con m�, s� gì th�n t�i !
        ...

        1. Thương chi m� bạn thương v� cớ,
        2. Nhớ chi m� bạn nhớ bao đồng.
        3. Trai đ� c� vợ, g�i đã c� chồng m� bạn thương.
        ...

        1. Kết phứt đi, đ�y duy�n, đ� nợ,
        2. Kết phức đi, đ�y vợ, đ� chồng.
        3. D� �ng Trời chưa định, �ng Tơ Hồng cũng chưa xe.
        ...

        1. Xa l�m chi m� xa quanh, xa quất,
        2. Xa l�m chi m� xa tối, xa tức, xa vội, xa v�ng,
        3. Kh�ng cho thiếp thở ch�ng than đ�i lời.
        ...

        1. Khổ chi p hận em, cha chả l� cam phận khổ,
        2. L�n non đốn củi, đụng chỗ đốn rồi,
        3. Xuống s�ng g�nh nước, đụng chỗ c�t bồi khe kh�.

Trư�c đ�y, trong khi sưu tầm, cũng c� lần gặp một v�i b�i ca dao gồm c� 3 c�u như thế, ch�ng t�i cứ tưởng l� người bi�n soạn ch�p sai, hay nh� in sắp chữ xuống h�ng kh�ng đ�ng. Về sau vì nhận thấy số ca dao "thất thất b�t" gặp được cũng kh� nhiều, v� do những nh� văn học bi�n soạn kh�c nhau, n�n ch�ng t�i đặt th�nh vấn đề, m� sưu tầm s�u rộng hơn, v� tự hỏi c� phải đ�y l� một thể trung gian giữa thể "lục b�t" v� thể "song thất lục b�t" chăng? V� vì sao những s�ch sưu tầm cũ hơn, như Tục ngữ - Phong dao của Nguyễn Văn Ngọc, Thanh H�a quan phong� của Vương Duy Trinh chẳng hạn, hay ở một số s�ch tham khảo về thi ca bình d�n gần đ�y, kh�ng thấy ghi c�c c�u ca dao thể "thất thất b�t" nầy?

Ch�ng t�i nghĩ rằng c� lẽ vì ng�y trước, ca dao miền Bắc đã tiến đến mức độ cao hơn miền Nam rất nhiều, truyện Kiều được phổ biến s�u rộng trong đ�m bình d�n, phong tr�o d�n ca trong c�c hội h� được thịnh h�nh đã l�u, n�n những c�u ca dao "thất thất b�t" đã phải nhường chỗ cho những c�u ca dao thể "lục b�t" v� "song thất lục b�t" b�c học ho�, l� c�c thể được coi như mẫu mực phải theo. Còn c�c nh� bi�n soạn gần đ�y, c� lẽ cho những c�u thể "thất thất b�t" nầy kh�ng đ�ng mẫu mực, kh�ng v�o luật thơ n�o cả, n�n kh�ng tuyển tr�ch lại chăng?

Cũng xin lưu ý rằng những c�u ca dao "thất thất b�t" m� ch�ng t�i đã sưu tầm được cho đến nay, hầu hết đều xuất xứ ở miền Trung v� miền Nam, cho n�n khi bỏ vần, c�c nh� thơ d�n gian kh�ng ch� trọng đến phụ �m cuối tiếng, như "v�ng" vần với tiếng "than", hay lẫn lộn c�c �m căn bản cuối tiếng, như "liềm" vần với "chìm", v. v... C�c nh� Nho đã căn cứ v�o c�c b�i "lục b�t" v� "song thất lục b�t" đã c� gi� trị nghệ thuật mức độ cao, để l�m ra c�c "luật thơ" như vừa thấy tr�n đ�y, m� hiện nay đang còn được giảng dạy ở c�c lớp văn khoa. Nhưng khi nhìn lại một c�ch bao qu�t c�c thể thơ truyền khẩu, từ thể gọi l� biến thức đến thể gọi l� ch�nh thức, ch�ng t�i tự hỏi c� thể c� được một "luật thơ" n�o kh�c đơn giản hơn c�c luật thơ do c�c nh� Nho l�m ra, để chi phối chung tất cả c�c b�i thi ca truyền khẩu của ta kh�ng?

Năm 1942, trong Thi nh�n Việt Nam, Ho�i Thanh v� Ho�i Ch�n đã nhận thấy c� một luật thơ m� c�c t�c giả gọi l� "luật đổi thanh": "Luật đổi thanh rất tự nhi�n trong thơ Việt vẫn chi phối hết thảy c�c thể thơ". Với lời ký ch� th�m: "Hễ c�u thơ chia l�m hai, ba hay bốn đoạn, những chữ cuối c�c đoạn phải lần lượt bằng rồi trắc, hay trắc rồi bằng". (15) Từ đ�, ch�ng t�i để t�m kiểm chứng thì thấy phần lớn c�c b�i "thơ mới" (m� ch�ng t�i đã c� dịp đọc qua) đã cấu tr�c đ�ng theo luật ấy. Chẳng hạn như mấy c�u ở b�i Lời Kỹ nữ của Xu�n Diệu:

        Kh�ch ngồi lại (T) c�ng em (B) trong chốc nữa (T),
        Vội v�ng chi (B)� trăng s�ng lắm� (T) � kh�ch ơi (B)!
        Đ�m nay rằm (B) yến tiệc (T) s�ng tr�n trời (B),
        Kh�ch kh�ng ở� (T) lòng em (B) c� độc qu� (T).
        Kh�ch ngồi lại� (T) c�ng em (B) đ�y gối lả (T)
        Tay em đ�y (B)� mời kh�ch� (T) ngả đầu say (B)...

Cũng như mấy c�u ở b�i Nhớ rừng của Thế Lữ:

        Gặm một mối (T) căm hờn� (B)� trong cũi sắt (T),
        Ta nằm d�i� (B), tr�ng ng�y th�ng (T) dần qua (B).
        Khinh lũ người kia (B)� ngạo mạn (T), ngẩn ngơ (B),
        Giương mắt b� (T) giễu oai linh (B) rừng thẳm (T).

Mấy c�u ở b�i Tiếng thu của Lưu Trọng Lư:

        Em kh�ng nghe m�a thu
        dưới trăng mờ (B)� thổn thức (T)
        Em kh�ng nghe (B) rạo rực (T)
        Hình ảnh� (T) kẻ chinh phu (B)
        Trong lòng (B) người c� phụ (T)
        Em kh�ng nghe rừng thu
        L� thu k�u (B)� x�o xạc (T)
        Con nai v�ng (B) ngơ ng�c (T)
        Đạp tr�n l�� (T) v�ng kh� (B).

Ch�ng t�i cũng c� dịp kiểm chứng th�m c�c b�i h�t n�i thời xưa, như mấy c�u của Nguyễn C�ng Trứ:

        Vòng trời đất (T) dọc ngang (B) ngang dọc (T)
        Nợ tang bồng (B) vay trả (T) trả vay (B)
        Ch� l�m trai (B) nam bắc (T) đ�ng t�y (B)
        Cho phỉ sức (T)vẫy v�ng (B) trong bốn bể (T)...

Cũng như mấy c�u của Cao B� Qu�t:

        Ba vạn (T) s�u nghìn ng�y (B) l� mấy (T)
        Cảnh ph� du (B) tr�ng thấy (T) cũng nực cười (B)
        Th�i c�ng đ�u (B) chuốc lấy (T) sự đời (B)
        Ti�u khiển (B) một v�i chung (B) lếu l�o (T)...

Nhất l�, ch�ng t�i cố ý tìm xem "luật đổi thanh" nầy c� chi phối thi ca truyền khẩu kh�ng? Từ mấy c�u thể "n�i lối" của đồng dao:

        Chập (T) chầm v�ng (B)
        Chị c� chồng (B) em ở g�a (T)
        Chị ăn c� (T) em m�t xương (B)
        Chị� nằm giường (B) em nằm đất (T)
        Chị ăn mật � (T) em liếm ve (B)
        Chị ăn ch� (B)� em liếm b�t (T)
        Chị coi h�t (T) em vỗ tay (B)
        Chị ăn m�y (B) em x�ch bị (T)
        Chị l�m đĩ � (T) em thu tiền (B)...

Đến mấy c�u ca dao "lục b�t biến thể":

        Nhiều nơi (B) ph� quý (T) em cũng chẳng m�ng (B)
        Em quyết chờ (B) cho được (T) nghĩa đ� v�ng (B1) s�nh đ�i (B2)

Mấy c�u thể "song thất lục b�t biến thể":

        Tr�c phải (T) xa mai (B) thì ho�i tr�c lứa� (T)
        Tr�c hỏi mai rằng (B) đã c� nơi m� nương tựa (T) hay chưa (B)
        C� nơi m� (B) nương tựa (T) khi nắng khi mưa (B),
        Hay còn �m duy�n (B)� để đ� (T), đi sớm về trưa (B1) một mình� (B2)

Cho đến mấy c�u thể "thất thất b�t" :

        Ni�n kỷ (T)�cũng đồng (B) ni�n kỷ (T)
        Phu th� (B) cũng phỉ (T)� phu th� (B)
        Muốn g� duy�n (B) chồng vợ (T)� chỉ sợ em ch� (B1)�anh ngh�o (B2).

Ch�ng t�i nhận thấy rằng trừ một v�i ngoại lệ, nhìn chung "luật đổi thanh" cũng chi phối phần lớn c�c b�i thơ truyền khẩu của d�n ta. Ri�ng về c�c thể gọi l� "biến thức", lối ngắt đoạn trong c�u đòi hỏi phải ph� hợp với ý nghĩa, với tình tự của d�n gian, n�n c� đoạn d�i, đoạn ngắn kh�c nhau, t�y theo sự cảm x�c của nh� thơ, nhờ đ� thi phẩm được sống động, tình ý được bu�ng t�ng, lời thơ được hồn nhi�n hơn.

C.    �Hình tượng v� văn ảnh

Hình tượng v� văn ảnh l� th�nh tố kh�ng k�m phần quan trọng trong cấu tr�c thi ca truyền khẩu. Ng�n ngữ Việt Nam lại l� một ng�n ngữ vận dụng rất nhiều hình tượng v� văn ảnh trong c�c c�u chuyện thường ng�y giữa d�n gian với nhau, như: theo đòi "b�t nghi�n", tình "chăn gối", tay "dao b�a ", bọn "đầu tr�u mặt ngựa", th�n "bồ liễu", kiếp "giang hồ", nợ "n�i s�ng", lời "trăng hoa", cuộc "bể d�u", đời "mưa gi�", "sửa t�i n�ng khăn", "cò bay thẳng c�nh", "treo dầu heo b�n thịt ch�", "ăn ch�o đ� b�t", "gảy đ�n lỗ tai tr�u"...

Hình tượng v� văn ảnh tạo ra những x�c cảm mãnh liệt tối đa, để những cảm gi�c ấy sẽ dẫn khởi t�m tư người nghe đến những vấn đề cao rộng hơn, những vấn đề li�n hệ đến th�n phận của con người, đến ho�i vọng nghìn năm của cả một d�n tộc. Ng�n ngữ Việt đã đưa v�o thơ truyền khẩu rất nhiều hình tượng, văn ảnh, kể từ lối tỉ dụ, ho�n dụ� th�ng thường nhất,� lấy sự vật nầy so s�nh hay thay thế cho sự vật kh�c (tỉ: so s�nh; ho�n: đổi, thế), như ở c�u:

        Khi n�n, tay kiếm, tay cờ,
        Kh�ng n�n thì� cũng chẳng nhờ cậy ai!

"Tay" l� một bộ phận thay thế cho to�n thể l� "con người". "Tay kiếm, tay cờ" thay thế cho "con người c� uy quyền, chức phận".

        Cha còn g�t đỏ như son,
        Cha chết g�t mẹ, g�t con đen sì.

"G�t đỏ, g�t đen" l� lấy hậu quả của cuộc đời sung sướng, cuộc đời khổ sở.

Cho đến lối ẩn dụ l� một tỉ dụ kh� nhận thấy (ẩn: che đậy) d�ng c�ch gh�p c�c hình tượng so s�nh để hội nhập lại th�nh một văn ảnh.

        Mua kim đi chọn lưỡi c�u, �
        Mua b� chọn bầu, c� đ�ng kh�ng anh ?

Mua lưỡi c�u để may, mua giống bầu để trồng b�! Qua ẩn dụ nầy, người nghe ngầm hiểu rằng người con g�i dụng ý ch� người con trai đã lầm lẫn�trong khi đi chọn lựa lứa đ�i. C� phần kh�c với "hình tượng", "văn ảnh", theo Andr� Breton, l� một s�ng tạo của tr� �c thuần t�y. Văn ảnh kh�ng thể ph�t sinh từ một sự so s�nh giữa hai sự vật tương tự, m� từ một sự đưa hai thực tại xa c�ch nhau đến gần s�t lại với nhau. Mối li�n hệ giữa hai thực tại c�ng xa c�ch, c�ng ch�nh x�c, thì văn ảnh c�ng mãnh liệt... c�ng c� nhiều cường lực x�c cảm, c�ng c� nhiều thực chất thi vị hơn " (16). �Chẳng hạn như ở b�i ca dao sau đ�y:

        R� rừng thì c� hươu mang,
        Khe suối thì c� măng giang,
        Đò dọc thì c� đò ngang,
        Chợ b�a thì c� mụ b�n h�ng.�
        Bao giờ anh gặp được n�ng,
        R� rừng trả lại cho hươu mang,
        Khe suối trả lại cho măng giang,
        Đò dọc trả lại cho đò ngang, �
        Chợ b�a trả lại cho mụ b�n h�ng.
        Ai m� rồi trả nấy,
        Thiếp với ch�ng duy�n lại xe duy�n.

Sự vật ch�nh muốn trình b�y kh�ng thấy n�i rõ ra. Người nghe, người đọc phải suy đo�n để hiểu. Nhưng mỗi người c� thể suy đo�n một c�ch kh�c nhau. Ri�ng phần ch�ng t�i, thì xin hiểu những c�u nầy như sau: Trước khi gặp nhau, trong sinh họat mưu sinh hằng ng�y, trai cũng như g�i đã c� bao nhi�u dịp được gặp gỡ nhau trong rừng, dưới suối, tr�n một chuyến đò, giữa một phi�n chợ..., v� đã c� bao nhi�u mối tình ngắn ngủi, tho�ng qua. Những hình ảnh song đ�i "hươu mang, măng giang", "đò dọc, đò ngang", "chợ b�a, mụ b�n h�ng" v� c�c m�i trường "rừng r�, khe suối, đò đưa, chợ b�a", hội nhập lại th�nh bao nhi�u hình tượng n�i l�n c�c cuộc dan d�u ngắn ngủi ấy. Nhưng h�m nay, ch�ng trai v� c� g�i gặp nhau được, quyết tình x�y dựng l�u d�i, thì "ai m� rồi trả nấy", chấm dứt với những mối tình bốc đồng, tho�ng qua ng�y xưa. C�c hình ảnh "hươu mang trả lại cho r� rừng, măng giang trả lại cho khe suối", đò giọc trả lại đò ngang, chợ b�a trả lại mụ b�n h�ng, hai tiếng trả lại được lặp tới lặp lui để nhấn mạnh v�o ý định muốn thanh to�n tình cảm với qu� khứ một c�ch sòng phẳng v� dứt kho�t. To�n b�i l� một văn ảnh gi�p cho ch�ng trai hay c� g�i kia c� thể trình b�y với nhau một c�ch k�n đ�o về điều kiện ti�n quyết trước khi lấy nhau l� "cả đ�i b�n phải đoạn tuyệt với tất cả c�c mối tình nhăng nh�t của mình trong dĩ vãng". Đ� l� điều, m� ở thời xưa, giữa trai g�i mới quen nhau, kh� m� c� thể n�i trắng trợn ra được.

V� ta c� thể hiểu thế n�o qua mấy c�u dưới đ�y ?

        Đố ai biết l�a mấy c�y, �����
        Biết s�ng mấy kh�c, biết m�y mấy từng?
        Đố ai qu�t sạch l� rừng,
        Để ta khuy�n gi�, gi� đừng rung c�y?

Sự li�n hệ giữa c�c thực tại trong mấy c�u nầy vừa phức tạp vừa xa c�ch nhau l�m cho người nghe, mỗi người c� thể hiểu một c�ch, như: "Trời sinh ra gi� thì phải thổi, cũng như Trời sinh ra con người thì phải y�u thương. L� rụng l� hậu quả của gi� thổi, cũng như đau khổ, mất m�t l� hậu quả của tình y�u! Khuy�n được lo�i người đừng y�u thương, cũng giống như đếm số c�y l�a, đếm kh�c s�ng, đếm từng m�y, qu�t sạch l� trong rừng, l� những điều kh�ng thể l�m được. M� đố ai� l�m được, thì t�i sẽ bảo� những kẻ y�u thương ở đời nầy đừng đau khổ nữa!"

Nhưng cũng c� người hiểu c�u ca dao nầy một c�ch kh�c hơn:� "Gi� thổi l�m cho l� phải rụng cũng như miệng tiếng người đời đã l�m cho bao nhi�u tình y�u phải bị lung lay. Đố ai ngăn chận được miệng tiếng người đời! Đ� l� việc kh� l�m được (cũng như như đếm l�a, đếm kh�c s�ng, đếm tầng m�y, hay qu�t sạch l� rừng). Miệng tiếng người đời tất nhi�n kh�ng ngăn chận được... vậy cứ mặc cho gi� rung gi� thổi, l�m xao xuyến, lung lay... song (hiểu ngầm rằng) "rung sao cho chuyển lòng anh với n�ng!" -- một b�i ca dao kh�c m� nhiều người đã biết:

        Tr�n trời c� đ�m m�y xanh, �
        Ở giữa m�y trắng, xung quanh m�y v�ng.
        Bao giờ anh cưới được n�ng, �������
        Thì anh mua gạch B�t Tr�ng về x�y.
        X�y dọc rồi lại x�y ngang, ��
        X�y hồ b�n nguyệt cho n�ng rửa ch�n.
        C� rửa thì rửa ch�n tay,
        Đừng rửa l�ng m�y, chết c� ao anh.

Về hai c�u ch�t, người nghe c� thể suy đo�n kh�c nhau: C� người cho rằng "l�ng m�y c� g�i sắc lắm c� thể đ�m chết c� của mình, cho n�n ch�ng trai mới bảo c� g�i đừng rửa ở hồ ấy". N�i như thế để ngụ ý khen mắt c� g�i đẹp, sắc b�n, tình tứ lắm...

M� cũng c� người cho rằng hình ảnh c� g�i rửa l�ng m�y cho ph�p ta nghĩ l� c� ấy kh�c. Kh�c, nước mắt r�n rụa, n�n đến rửa l�ng m�y tại hồ nầy. Vì sao mới lấy chồng m� kh�c? Nếu kh�c vì nhớ cha mẹ, nhớ gia đình, thì ch�ng trai đến an ủi, nựng dỗ, sao lại cấm đo�n? C� phải l� c� ta kh�c vì nhớ ai kh�c kh�ng? N�i trắng ra, ch�ng trai mượn hình ảnh nầy để n�i với c� g�i rằng: "Anh cưới em về nưng niu như thế, thì em đừng nhớ thương những tình cũ nghĩa xưa m� than l�n kh�c thầm, l�m cho chết cả lòng anh", (chết c� ao anh).

Thật ra, một thi phẩm kh�ng bao giờ chỉ c� một ý nghĩa đơn độc, m� thường c� nhiều ngụ ý ẩn dụ kh�c nhau. Văn h�o Ph�p, Paul Val�ry, đã từng cảnh c�o rằng: "Đ�y l� một sai lầm phản lại t�nh chất của thơ, đến c� thể giết chết thơ đi, khi ta khẳng định rằng mỗi một thi phẩm chỉ tương ứng với một ý nghĩa đ�ng thật, độc nhất v� ph� hợp hay đồng nhất với một ý tưởng của t�c giả m� th�i". (17)

"Ẩn dụ" l� một đặc t�nh cố hữu của d�n tộc ta. Ng�y xưa, d�n gian �t khi n�i rõ r�ng (trắng trợn) tình cảm, ý nghĩ của mình ra, tr�i g�i tỏ tình với nhau cũng chỉ n�i gần, n�i xa, d�ng những hình ảnh so s�nh, ho�n dụ, nhất l� "ẩn dụ" m� th�i. N�i như thế, ai muốn hiểu thế n�o thì hiểu. T�n trọng sự tự do suy luận của người nghe. Nếu hiểu đ�ng với t�m sự mình thì đ� thật l� "tri �m tri kỷ", như B� Nha v� Chung Tử Kỳ ng�y xưa! Còn kh�ng, thì cũng chỉ vì kh�ng c� duy�n nợ với nhau th�i, c� tiếc cho lắm cũng chẳng biết l�m sao!

T�m lại, ở đ�y t�nh chất thi ca của ca dao v� d�n ca Việt chỉ được phơi b�y dưới một kh�a cạnh nhỏ của ng�n ngữ học, kh�a cạnh của một "ng�n ngữ-ký ức". Chỉ dưới một kh�a cạnh nhỏ ấy th�i, cũng đủ cho ch�ng ta nhận ch�n được gia t�i "gi�u sang" m� �ng cha ch�ng đã lưu lại cho con ch�u: một kho v� tận của những tiếng k�p đ�i, với ngữ thuật xen kẻ k�p đ�i th�nh những c�u thơ c�n đối nhịp nh�ng, hội nhập với bao nhi�u �m vận, �m thanh dồi d�o, quyến rủ, đầy nhạc t�nh, bản thể cố hữu của thi ca. Cũng đủ cho ta thấy �ng cha ta từ xưa đã biết vận dụng� những "c�u hứng", những c�u khai m�o, rao bản, những "c�u thơ v� nghĩa" m� một số nh� thơ T�y phương, trước thực tại bế tắc trong thi đ�n hiện nay của họ, đã phải l�n tiếng th� nhận rằng: " Sự v�-nghĩa đã trở th�nh một trong những phương s�ch cứu vãn ưu ti�n cho thi ca hiện đại" (18). V� cũng đủ cho ch�ng ta nhận ch�n điểm đặc sắc của ng�n ngữ Việt l� rất "gi�u sang" kh�ng những về hình tượng, m� còn về văn ảnh, m� theo một nh� ph� bình Ph�p, "văn ảnh c� khuynh hướng trở th�nh một dấu hiệu đặc trưng của thi ca hiện đại." (19) Nếu cho rằng thi ca truyền khẩu Việt Nam vốn c� bản chất thơ v� �t nhiều t�nh chất hiện đại, tưởng kh�ng phải l� một khẳng định thậm xưng.

Sở dĩ thi ca truyền khẩu của ta c� được gi� trị gì nghệ thuật, văn h�a đ�ng kể, phần n�o cũng nhờ tập qu�n "h�t, hò" cố hữu của d�n tộc Việt Nam để b�y tỏ tình ý của mình m� ứng xử trong mọi ho�n cảnh của cuộc sống hằng ng�y trong gia đình, cũng như ngo�i xã hội. �ng cha ch�ng ta ngồi buồn cũng h�t, ru con cũng h�t, dỗ con chơi cũng h�t, trai g�i chọc ghẹo nhau cũng h�t, tỏ tình giao duy�n với nhau cũng h�t, thương y�u nhau cũng h�t, nhớ nhung, giận dỗi, buồn rầu, thất vọng... cũng h�t, l�m ruộng cũng h�t, giả gạo cũng h�t, ch�o đò cũng h�t, c�ng lễ, l�n dồng cũng h�t, đ�nh b�i (chòi) cũng h�t, cuối c�ng đưa đ�m ma ra nghĩa địa cũng h�t. Thậm ch�, (cũng v�o thời xưa), thi�n hạ chửi rủa mắng mỏ nhau, cũng th�nh c�u c� vần c� điệu như l� h�t. Cho n�n th�i quen hò h�t, c�c ý thức vần điệu nhịp nh�ng đã th�nh như một bản t�nh tự nhi�n của con người Việt nam từ ng�n xưa:

        Đố ai nằm võng kh�ng đưa,
        Ru em kh�ng h�t �u ơ đ�i lời ?

CH� TH�CH

(1) �Paul Val�ry, Propos sur la Po�sie, 1927, (repris dans Vari�t�) cit� par Jean-Louis Joubert, dans La po�sie, Armand Colin, Paris, 1992, trang 53: (Le langage dont je viens de me servir, qui vient d'exprimer mon dessein, mon d�sir, mon commandement, mon opinion, ma demande ou ma r�ponse, ce langage qui a rempli son office, s'�vanouit � peine arriv�. Je l'ai �mis pour qu'il p�risse, pour qu'il se transforme irr�vocablement en vous.... Si vous avez compris mes paroles, mes paroles m�mes ne vous sont plus rien; elles ont disparu de vos esprits, cependant que vous poss�dez leur contre-partie, vous poss�dez, sous forme d'id�es et de relations, de quoi restituer la signification de ces propos, sous une forme qui peut �tre diff�rente.).

(2) �Paul Zumthor, Introduction � la po�sie orale , Paris, Seuil, 1983, trang 59 (On peut douter qu'il exista jamais dans l'histoire une culture d�pourvue de po�sie orale.).

(3) �Jean-Louis Joubert, La po�sie , Paris, Armand Colin, 1992, trang 13: (Quand l'�criture n'existe pas, on a recours � la po�sie pour fixer et p�renniser ce que disent ou pensent les hommes... L'oralit� conserve aussi bien, parfois mieux que l'�criture... Etant un langage-m�moire, elle suscite une forme qui prot�ge, conserve et transmet.).

(4) Paul Zumthor, Introduction � la po�sie orale, s.đ.d., trang 80 (Le fonctionnement de la m�moire collective d�termine le mode de structuration po�tique. Le po�me y appara�t "relecture" plut�t que "cr�ation".).

(5) �Nguyễn Tr�c Phượng, Việt Nam Văn Học Bình D�n, Khai Tr�, Saigon 1970, Xu�n Thu t�i bản, California, Hoa Ky, năm ?, trang 101.

(6)� Jean-Louis Joubert, La po�sie, s.đ.d., Inspiration, trang 29.

(7) �Paul Verlaine, Jadis et nagu�re "Pantoum n�glig�", 1884: "Trois petits p�t�s, ma chemise br�le./ Monsieur le cur� n'aime pas les os./ Ma cousine est blonde, elle a nom Ursule./ Que n'�migrons-nous vers les Palaiseaux!".

(8) �Paul Val�ry, Po�sie et pens�e abstraite, 1939, repris dans Vari�t�, cit� par J.-L. Joubert dans La po�sie, s.đ.d., trang 54 (Un po�te... n'a pas pour fonction de ressentir l'�tat po�tique: ceci est une affaire priv�e. Il a pour fonction de le cr�er chez les autres.).

(9) �Paul Zumthor, Introduction � la po�sie orale , s.đ.d., trang 80-81 (Pour cette raison m�me, la po�sie orale comporte g�n�ralement plus de r�gles, et plus complexe, que l'�crite: dans les soci�t�s � forte pr�dominance orale, elle constitue souvent un art beaucoup plus �labor� que la plupart des produits de notre �criture.).

(10) �Jean-Louis Joubert, La po�sie, s.đ.d., trang 14: (La composition se calque sur les rythmes du corps; la scansion �pouse la respiration. Des proc�d�s simples o� le gestuel et le linguistique se superposent - s�ries de balancements et de contre-balancements, de r�p�titons et d'antith�ses, de sym�tries et d'inversions, de parall�lismes et d'assonances, etc... - facilitent le travail de la m�morisation et assurent la connivence de l'auditoire, en m�me temps qu'ils permettent la cr�ation par la jeu de variations � l'infini. Cette inscription de la po�sie dans les gestes et le corps perdure m�me lorsqu'on s'�loigne de l'oralit�. C'est elle qui fonde le rythme, par quoi la po�sie se distingue d'autres formes de langage.).

(11) �Jean-Louis Joubert, La po�sie, s.đ.d., trang 110: (Le parall�lisme est une notion r�cente qui n'int�resse gu�re la rh�torique classique. Quand Malherbe traduit les Psaumes, il semble ne pas voir que la po�sie biblique se fonde sur parall�lismes et il ne cherche gu�re � les restituer en fran�ais.).

(12) ��Bình-Nguy�n Lộc, Nguồn gốc Mã Lai của d�n tộc Việt Nam, Xu�n Thu, Saigon, 1971, t�i bản California, Hoa kỳ, năm ?, Chi �u, chi Lạc, trang 307-319.

(13) �Paul Val�ry, Passage de Verlaine, 1921, in Vari�t� (La po�sie est l'ambition d'un discours qui soit charg� de plus de sens et m�l� de plus de musique que le langage ordinaire n'en porte et n'en peut porter.).

(14)� �B�i Kỷ, Quốc văn cụ thể , H� Nội, năm 1932, trang� 25.

(15) ��Ho�i Thanh, Ho�i Ch�n, Thi nh�n Việt Nam, 1942, Nh� xb H�nội t�i bản, 1988, trang 41, bị ch� số 1 c�ng trang.

(16)� Jean-Louis Joubert, La po�sie, s.đ.d., trang� 45, 46: (C'est dans le Premier manifeste qu'Andr� Breton propose une d�finition de l'image, reprise d'ailleurs de Pierre Reverdy: "L'image est une cr�ation pure de l'esprit. Elle ne peut na�tre d'une comparaison mais du rapprochement de deux r�alit�s �loign�es. Plus le rapport de deux r�alit�s seront lointaines et justes, plus l'image sera forte..., plus elle aura de puissance �motive et de r�alit� po�tique.).

(17) �Paul Val�ry, Commentaire des "Charmes", 1929 (repris dans Vari�t�).cit� par Jean-Louis Joubert, La po�sie, s.đ.d., trang 52: (C'est une erreur contraire � la nature de la po�sie, et qui lui serait m�me mortelle, que de pr�tendre qu'� tout po�me correspond un sens v�ritable unique, et conforme ou identique � quelque pens�e de l'auteur.).

(18) �Jean-Louis Joubert, La po�sie, s.đ.d., Po�sie et r�volution, trang 58 (Le non-sens est devenu l'un des recours privil�gi�s de la po�sie contemporaine.).

(19) �Jean-Louis Joubert, La po�sie, s.đ.d., trang 45 (L'image tend � devenir signe distinctif de la po�sie moderne.).



Home | Literature | Poetry | Science | Great Places | Explore | Fiction and More | Comments

Copyright ©2004-2009 Vo Thu Tinh All Rights Reserved

This site is continually updated.