Ng�n Ngữ - Ký Ức v� Thi Ca Truyền Khẩu Việt Nam Võ Thu TinhVề phương diện ng�n ngữ, c� thể chia văn
chương
truyền khẩu th�nh hai loại: Loại văn vần c�
hình thể cố định, như ca dao, d�n ca... lời được
lưu truyền nguy�n văn, kh�ng thay đổi, đồng
thời vì lu�n lu�n ngắn gọn v� c� nhiều vần, n�n được
tiếp nhận dễ d�ng v� được ghi khắc v�o
ký ức của người nghe một c�ch l�u d�i. V�
loại văn xu�i c� hình thể kh�ng cố định, như
c�c truyện thần thoại, huyền thoại, cổ
t�ch, truyện kể, lời văn kh�ng cố định,
c�ng một cốt chuyện như nhau, m� khi kể, mỗi
người lại d�ng lối văn ri�ng của mình, kh�ng
ai giống ai. Khi nghe kể xong, người ta chỉ
nhớ cốt chuyện m� th�i, chớ kh�ng mấy ai
nhớ hết c�c lời văn xu�i m� người kể đã
d�ng. Paul Val�ry giải th�ch hiện tượng ấy như
sau: "Ng�n ngữ m� t�i vừa d�ng để diễn đạt
một ý đồ, một sự mong muốn, một
mệnh lệnh, một ý kiến, một thỉnh cầu
hay một giải đ�p của t�i, c�c c�u văn xu�i
ấy, một khi vừa l�m xong nhiệm vụ truyền đạt
của ch�ng, tức khắc sẽ biến mất. T�i đã
thốt c�c c�u văn xu�i ấy ra, l� để cho ch�ng n�
ti�u tan đi v� dứt kho�t biến nhập v�o trong tr� �c c�c
anh... Nếu c�c anh đã hiểu được những
lời t�i n�i rồi, thì những lời ấy kh�ng còn
cần thiết gì đối với c�c anh nữa, ch�ng đã
biến v�o t�m tư c�c anh, v� để b� lại, c�c anh đã
nhận được của t�i, dưới hình thức
c�c tư tưởng v� c�c ý thức li�n hệ, những gì để
c�c anh c� thể phục nguy�n lại ý nghĩa trong những
lời văn xu�i m� t�i đã d�ng, bằng những lời văn
của ch�nh c�c anh thốt ra, v� những lời ấy c�
thể kh�c với những lời của t�i vừa n�i đ�
".(1)
Nếu
một c�u chuyện qu� d�i, kh� nhớ, d�n gian ta thường
xen v�o ở mỗi đoạn ch�nh của c�u chuyện
ấy một v�i "c�u thơ" ngắn để l�m
mốc,� nhờ đ� về
sau, người nghe c� thể nhớ lại c�c diễn
biến của cốt chuyện dễ d�ng hơn. Chẳng
hạn trong một cổ t�ch d�i như chuyện Tấm
C�m, ở mỗi sự việc ch�nh đều c� một
v�i "c�u thơ" k�m theo, v� dụ như:
Đoạn đầu, Tấm nu�i c� bống của Phật cho:
C�i bống l� c�i bống bang ! �
Đoạn Tấm bị dì ghẻ giết, h�a ra chim ho�ng oanh:
Giặt �o chồng tao,
Đoạn gần cuối, Tấm
lại bị giết, lần nầy Tấm ho� ra tr�i thị:
H� tr�i thị rơi bị b� gi�,
Trong Introduction � la po�sie orale
(Nhập m�n thi ca truyền khẩu), gi�o sư Paul Zumthor
nhận x�t rằng: "Người ta c� thể ngờ
rằng trong lịch sử đã kh�ng bao giờ c� một
nền văn h�a n�o m� kh�ng c� thi ca truyền khẩu" (2). V�
Jean-Louis Joubert, trong La Po�sie (Thi Ca), đã x�c nhận
th�m: "Khi chưa c� chữ viết, người ta
phải cầu đến thi ca truyền khẩu để
ghi lại v� vĩnh cửu h�a những gì con người đã
n�i hay đã nghĩ. [...] V� lời n�i bảo tồn l�u
cũng bằng chữ viết, c� khi lại còn l�u hơn
chữ viết nữa." (3)
Thi ca truyền khẩu l� một "thuật nhớ"
(mn�motechnique), l� "ký ức" của những d�n
tộc kh�ng c� chữ viết. D�n ta từ xưa cũng c�
c�u:
Trăm năm bia đ� vẫn mòn,
Nh� thơ d�ng "chữ viết ",
khi s�ng t�c chỉ c� một mình. Viết xong, còn c� thì giờ
sửa tới sửa lui. T�c phẩm "thơ chữ
viết" l� một sở hữu ri�ng của t�c giả.
Còn ở thơ truyền khẩu, d�n gian khi s�ng t�c thường
đối diện với nhiều người v� phải
ứng t�c c�c c�u ca dao, d�n ca
tức khắc v� ngay tại chỗ. Nếu c�c c�u ứng
t�c ấy được d�n gian cho l� hay, l� đ�ng với
t�m tình, ước vọng của mình, thì họ đem c�c
c�u ấy ra lặp lại (hay đọc lại) nguy�n văn,
kh�ng thay đổi, để đối đ�p với nhau
trong những dịp hò h�t về sau. Paul Zumthor cho rằng:
"Thơ truyền khẩu l� một c�ng trình "đọc
lại" hơn l� một c�ng trình "s�ng tạo".
(4) Tất nhi�n, ở thi ca truyền khẩu Việt Nam,
cũng như ở thi ca truyền khẩu của bất
cứ d�n tộc n�o, l�c đầu hẳn cũng phải
c� ngưới "s�ng tạo" ra, rồi d�n gian về
sau mới c� m� " lặp lại" hay "đọc
lại". Những người s�ng tạo ra thơ
truyền khẩu của d�n ta l� những người sinh
sống ở n�ng th�n: c�y ruộng, l�m c�ng, l�m thợ... v� đ�ng
kể nhất l� c�c h�n Nho. H�n Nho l� những nh� Nho ngh�o (h�n)
sinh ra ở th�n qu�, lớn l�n ở th�n qu�. Ch�nh họ l�
những người m� đời sống đã gắn
liền với x�m l�ng, với b� con, l�ng giềng, th�n
thuộc ch�n lấm tay b�n, để chia xẻ, từ
những nỗi kh� khăn thường ng�y, đến
những lối suy cảm, những niềm vui buồn s�u
xa của con người n�ng th�n Việt Nam. Những
dịp hội h�, nh�m họp, h�t xướng, họ đều
c� mặt. Ch�nh họ l� những người đã
"g�" thơ cho trai, g�i trong l�ng h�t đối đ�p
với nhau, tức l� đã dự một phần lớn v�
quan trọng v�o c�ng việc "s�ng t�c nguy�n thủy".
Những c�u ý hay, lời đẹp của họ đã được
truyền miệng từ anh trai c�y đến chị
thợ cấy, đem lại cho c�c nh� thơ bình d�n v� danh
kh�c bao nhi�u nguồn cảm hứng để s�ng t�c th�m.
Ch�nh Nguyễn Du l�c thiếu thời đã từng bao nhi�u năm
đi h�t phường vải, đã từng ứng t�c c�u
h�t, lời ca cho nam nữ thanh ni�n. Trong Truyện Kiều,
ai biết được c� bao nhi�u c�u giống ca dao, hay c�
bao nhi�u c�u Kiều ng�y nay đã trở th�nh c�c c�u ca dao? Nhưng
thường cũng c� trường hợp, d�n gian, trong khi
lặp lại c�c c�u đã được ứng t�c từ
trước, đã tự động sửa đổi đi
�t nhiều. (Sửa đổi cũng c� thể coi như
một c�ng trình "s�ng tạo", nhưng ở phạm
vi nhỏ hẹp hơn m� th�i). Sửa đi sửa lại
nhiều lần như thế, đến khi lời thơ
được xem như l� ho�n hảo rồi, thì hình
thể c�u ca dao hay d�n ca sẽ được cố định
v� được d�n gian lưu truyền l�u d�i, s�u rộng
hơn. Thi ca truyền khẩu kh�ng phải l� tư hữu
của một c� nh�n n�o, m� l� kết quả của sự
cọng t�c trong thời gian, trong kh�ng gian, giữa nhiều
người trong d�n ch�ng.
Thi ca truyền khẩu gồm c� ca dao v�
d�n ca... Song hai loại nầy kh�c nhau thế n�o? Ca dao
vốn l� b�i h�t su�ng kh�ng c� đệm tiếng nhạc, l�
những c�u h�t theo giọng điệu tự nhi�n, lưu
h�nh trong n�ng th�n để b�y tỏ tình tự của d�n
gian. Còn d�n ca l� những b�i h�t theo một l�n điệu
nhất định, như h�t xoan Ph�-thọ, h�t phường
vải Nghệ Tĩnh, h�t quan họ Bắc-ninh, h�t b�i chòi
Bình-định, h�t ca lý Nam phần... hay hò cấy l�a, giã
gạo, ch�o đò, k�o gỗ... phần lớn để
vừa tỏ t�m tình, lại vừa gi�p cho qu�n mệt
nhọc trong khi lao t�c. D�n ca c� nhiều tiếng l�y,
tiếng đệm, hay tiếng hò, tiếng x� ở điệp
kh�c, để đưa hơi, đưa giọng cho
dễ h�t. Nếu gạn bỏ c�c tiếng l�y, đệm,
hò, x� ấy đi, thì những lời còn lại hình thể
giống như những c�u ca dao. Hay ngược lại.
Chẳng hạn như c�u ca dao:
Thương em cho nửa tr�i cau,
Nếu đem ra hò theo d�n ca, điệu
"hò hụi Ki�n Giang" Nam phần, thì phải th�m c�c tiếng đệm,
l�y, hò, x� như sau: X� : " (Hò hụi l� l� hụi hố
khoan. Khoan hố khoan hố khoan ơ hò hụi). Kể : (L�
anh c�) thương em, X� : (L� l� khoan hố khoan, hố khoan ơ
hò hụi). Kể : Cho nửa tr�i cau, X� : (L� l� khoan hố
khoan, hố khoan ơ hò hụi.) Kể : Giấu cha
giấu mẹ, X� : (L� l� khoan hố khoan, hố khoan ơ hò
hụi). Kể : N�p sau b�ng đ�n ".
Hoặc mấy c�u d�n ca theo điệu
"quan họ" Bắc Ninh dưới đ�y: " (Tình
bằng c� c�i) trống cơm, (khen ai) kh�o vỗ (ấy
mấy v�ng) n�n v�ng (ấy mấy v�ng n�n v�ng). Một
bầy (tang tình) con s�t lội (lội lội) s�ng (ấy
mấy) đi tìm. (Em nhớ) thương ai (đ�i) con
mắt (ấy m�) lim dim. Một bầy (tang tình) con nhện
(� ớ a, ấy mấy) đi tìm (đi tìm, ấy mấy)
giăng tơ ".
Gạn bỏ c�c tiếng l�y, đệm,
hò, thì c� hình thể giống như ca dao:
Trống cơm kh�o vỗ n�n v�ng, �����
Ch� giải : (a) Con
s�t = loại chim sống trong ruộng nước, l�ng xanh,
mõ đỏ, hay ăn l�a.
Tr�n thực tế, ng�y nay khi ghi lại một b�i d�n ca,
người ta chỉ ghi c�c lời ca hình thể giống như một
b�i ca dao, kh�ng ghi c�c tiếng l�y, tiếng đệm,
tiếng hò, tiếng x�, v.v...
Nh� thơ
d�n gian phải ứng khẫu tức khắc v� ngay tại
chỗ trước mặt mọi người, kh�ng c� thì
giờ để suy nghĩ, tìm tòi những gì mới
lạ hơn... m� chỉ c� thể dựa v�o những điều
mình đã biết, đã nhớ, những gì đã c� sẵn
trong tr�, trong tiềm thức, trong ký ức của mình. Đối
tượng của thi ca truyền khẩu l� d�n ch�ng th�n
qu�, vì vậy những điều m� ca dao, d�n ca n�i l�n còn
phải bắt nguồn từ trong t�m tình, ý nghĩ, ước
vọng chung của d�n tộc Việt Nam, thì mới được
d�n gian cảm th�ng, tiếp nhận một c�ch dễ d�ng.
Những điều d�n ca, ca dao n�u ra c� t�nh c�ch như l�
những c�u trả lời cho c�c c�u hỏi m� d�n gian đã
từng tự đặt ra trong tiềm thức của
họ.
M� ứng khẩu hay ứng t�c thì thường phải c�
"hứng". Từ xưa đến nay, từ đ�ng
sang t�y, c�c nh� thơ đều cho rằng "hứng"
l� điều kiện cần thiết để s�ng t�c thơ
văn. "Hứng"� thường
c� ba lối:� Một l�
"thi�n hứng", l� đặc �n của trời ph� cho
một số �t người, bỗng nhi�n thốt ra được
những c�u thơ rất hay m� ch�nh t�c giả cũng kh�ng
ngờ được. Hai l� hứng theo "th�i quen",
vì th�i quen l�u ng�y đã trở th�nh một "bản sinh
thứ hai" của những người thuộc được
nhiều c�u ca dao, d�n ca, v� thường đi hò h�t l�u năm
ở nhiều nơi. Nhờ thuộc được
nhiều c�u ca dao, (một kho t�ng thi liệu trong ký ức)
n�n khi ứng khẩu, c� thể đem ra "lặp
lại", gh�p lại với nhau, sửa đổi �t nhiều,
thế n�o cho c�u dưới vần được với
c�u tr�n, tạo th�nh một b�i ca dao
ngắn, vần nhịp chỉnh đốn, th�ch nghi
với ho�n cảnh l�c đ�. Ng�y xưa, một trong
những điều kiện để được
nhận v�o c�c nh�m "h�t quan họ" hay c�c nh�m "h�t phường
vải" chẳng hạn, l� phải "thuộc được
nhiều c�u ca dao hay d�n ca" (5).
Ba l� lối "gợi hứng tại chỗ", như
tự mình lắc lư đầu, gật g�, gõ nhịp...
lẩm bẩm trong miệng, đi qua đi lại, vung tay
vung ch�n... (chưa kể h�t thuốc, ăn trầu,
uống rượu...) để tự k�ch th�ch thần
kinh, tưởng tượng, cảm x�c, khơi mở kho
t�ng thi liệu trong ký ức, khiến cho từng loạt
c�u thơ c� thể xuất hiện tu�ng ra dễ d�ng. (6)
Trong c�c
cuộc h�t hò ở th�n qu�, thỉnh thoảng cũng c� được
một v�i nh� thơ d�n gian c� "thi�n hứng", còn đa
số ứng t�c bằng "th�i quen", d�ng tr� nhớ
lặp lại những c�u đã thuộc để gh�p
th�nh b�i. Hoặc d�ng một kỹ thuật "gợi
hứng tại chỗ" mệnh danh l� "thể
hứng". Đ� l� lối d�ng những c�u m�o đầu
gọi l� "c�u hứng", đưa ra một v�i hình
ảnh hay sự việc gì đ�, để g�y kh�ng kh� h�o
hứng l�m cho ta cảm thấy th�ch th�, rạo rực
muốn ca h�t l�n, muốn bu�ng ra những c�u thơ, b�i h�t,
tiếng hò... V� nhất l� cũng để cho nh� thơ d�n
gian c� thì giờ suy nghĩ, tìm tiếng bắt vần xuống c�c c�u sau,
m� diễn tả tình ý của mình. Đặc điểm của
thể hứng l� nội dung những "c�u hứng"
m�o đầu ấy kh�ng li�n hệ gì với nội dung
của b�i ca dao hay d�n ca.
Tỉ dụ như ở c�c c�u sau đ�y:
Chim xanh ăn tr�i ổi T�u,
Những
hình ảnh, sự việc dẫn ra ở hai c�u hứng,
m�o đầu: "chim ăn ổi", "s�ng s�u sẵn
đò" kh�ng li�n quan gì đến việc "xứng đ�i
cha mẹ gả", "nhiều nh�n ngãi mang o�n th�".
Ngo�i việc gi�p cho c�c nh� thơ d�n gian được k�ch
th�ch, được c� thì giờ để tìm ý tìm lời,
thì c�c "c�u hứng" m�o đầu còn c� mục đ�ch
gi�p cho họ lấy giọng, c� được đ�, m�
can đảm đi v�o đề, b�y tỏ những ý
nghĩ ri�ng tư của mình ra. Theo lối xử sự
giữa nam v� nữ ng�y xưa, nếu bắt đầu m�
"tỏ tình" ra một c�ch qu� đường đột,
trắng trợn, thì c� thể l�m cho người nghe ngượng
ngập, thẹn th�ng. Giả tỉ c� trường hợp
một c� g�i muốn n�i với người y�u rằng:
"Thương anh đứt ruột m� giả đò l�m
ngơ" chẳng hạn. C� ta đã c� sẵn trong đầu
"c�u b�t" (8 tiếng) ấy, b�y giờ cần c�
một "c�u lục" (6 tiếng) để d�ng l�m
"c�u hứng", m� tiếng ch�t c� vần "ò" (để
vần với tiếng "đò" ở c�u b�t), gh�p với nhau cho
th�nh một c�u ca dao lục b�t. C� g�i ấy c� thể:
(a) Hoặc tự mình đặt ra một
c�u 6 chữ n�o đ�, chỉ cần tiếng ch�t c� vần
"ò" để gh�p với "c�u b�t" ấy m�
th�i, như:
Đ�m khuya lặn
lội th�n cò,
Ý trong c�u hứng
của c� g�i đặt ra: "đ�m khuya lặn lội
th�n cò " kh�ng li�n hệ gì với ý ch�nh trong c�u b�t "thương
đứt ruột m� giả đò l�m ngơ".
(b)
Hoặc c� g�i lấy lại nguy�n một v�i c�u ca dao đã
c� sẵn, m� tiếng ch�t c� vần "ò", như:
"Chim chuyền bụi ớt l�u lo", "Đường
đi c�ch n�i trở đò", "Đ�m khuya g� g�y �
o"... Đem lắp mỗi c�u ấy v�o với "c�u
b�t" thì sẽ th�nh nhiều c�u ca dao gi�p cho c� g�i b�y
tỏ được tình ý của mình:
Chim chuyền bụi ớt l�u lo, ���
C� những c�u ca dao được d�n gian đem ra d�ng đi
d�ng lại, để l�m "c�u hứng" m�o đầu,
như:
Đất Quảng Nam chưa mưa đã
thấm,
(c) Hoặc cũng lấy một c�u
lục đã c� sẵn, đem sửa v�i tiếng ch�t cho c�
vần "ò", rồi gh�p với "c�u b�t" ý ch�nh
của mình. Như lấy c�u lục ở một b�i đã
c� sẵn sau đ�y:
�Thò tay ngắt ngọn rau ng�u,
Đổi "ngọn rau ng�u" th�nh
"một ngọn ngò", cho c� vần "ò":
Thò tay ngắt một ngọn ngò, �������
(d) Lắm khi thể hứng gồm c�
nhiều c�u (chớ kh�ng phải chỉ một c�u lục
m� th�i), như:
N�i Ngự Bình trước tròn sau m�o, �
Thỉnh thoảng, cũng c� những c�u
hứng m� vừa l� c�u ph� (tả rõ), hay vừa l� c�u tỉ
(so s�nh), hay vừa l� c�u ẩn dụ (so s�nh thật k�n đ�o),
như:
Vừa hứng vừa ph� :
Rủ nhau xuống bể mò cua,
Hai c�u đầu thể hứng, lại
vừa tả rõ việc mò cua, h�i mơ để nấu
canh "mơ chua", rồi từ chữ "mơ
chua" bắt qu�ng li�n hệ xuống ý "chua
ngọt" của cuộc tình giữa đ�i lứa,
ở hai c�u sau.
Vừa hứng vừa tỉ :
S�ng kia c� lạ chi cầu,
C�u hứng đưa ra hình ảnh
"s�ng kh�ng lạ chi cầu" để li�n hệ
với ý ở c�u dưới: cũng như " đ�y v� đ�
c� lạ chi nhau".
Vừa hứng vừa ẩn dụ :
Đất
Quảng Nam chưa mưa đã thấm,
Giữa ý của hai c�u hứng v� ý ở
hai c�u tiếp theo, c� một li�n hệ gi�y chuyền: li�n hệ giữa hình
tượng
"rượu hồng đ�o" với "ch�n rượu
đầy", "lời thề nhớ ch�n rượu
nầy". Dư �m của ý "rượu chưa
nhấm đã say" b�ng bạc suốt b�i, dẫn
khởi đến "cuộc tình duy�n mới gặp m� đã
say m�", m� đã bu�ng "lời thề chung thủy ngay
tại đ�m nay". Một ẩn dụ cấu tr�c
nhẹ nh�ng m� tha thiết.
Đặc t�nh của những "c�u
hứng" l� ý b�ng quơ, rời rạc, kh�ng ăn
nhập gì với nội dung b�i d�n ca hay b�i ca dao. Đ� l�
những "c�u thơ v� nghĩa" so với to�n
b�i. Trong "đồng ca" (b�i h�t trẻ em) cũng
c� những "c�u thơ v�
nghĩa", đ� l� những đoạn c�u c� vần, c�
nhịp điệu cho dễ nhớ, với mục đ�ch
vừa dạy từ ngữ vừa mua vui cho trẻ em. Như:
Trời mưa l�m d�m,
Thi ca nước Ph�p, v�o c�c thế kỷ XII, XIII, cũng c�
một loại thơ gọi l� "fatrasie" trong mỗi
b�i thơ, trừ c�u đầu v� c�u ch�t, tất cả những
c�u kh�c đều b�ng quơ, v� nghĩa. V�o cuối thế
kỷ XIX, Paul Verlaine chủ trương "thơ trước
hết l� nhạc", c�u thơ chỉ cần gi�u �m hưởng,
nhạc điệu, c� khi bất chấp ý nghĩa,
chẳng hạn như ở b�i Pantoum n�glig�, 16 c�u to�n
l� "v� nghĩa" (hay c� một ý nghĩa m� kh�ng ai
thấy được), xin tr�ch 4 c�u đầu, dịch ra
tiếng Việt như sau:
Ba c�i b�nh pa-t� nhỏ, chiếc �o sơ-mi của t�i ch�y.
Gần đ�y, ở nước Anh cũng c� phong tr�o thơ
"nonsense" (v� nghĩa), với những c�u nội dung
chẳng ăn nhập v�o đ�u cả. Thi ca Ph�p, cũng đã
ph�t sinh khuynh hướng chủ trương thơ chỉ
cốt ở ngữ thuật (jeu du langage) hơn l� ý
nghĩa, lời thơ c� nghĩa hay v� nghĩa cũng kh�ng
quan trọng gì. Đến mức Paul Val�ry phải nhắc
đi nhắc lại rằng: "Một thi nh�n kh�ng c�
tr�ch vụ cảm thấy trạng th�i n�n thơ: điều
đ� l� một việc ri�ng tư của anh. M� tr�ch vụ
của thi nh�n l� tạo ra c�i trạng th�i n�n thơ ấy nơi
những người kh�c. (8)
Nhưng bản thể c�c "c�u hứng v� nghĩa" trong
ca dao ta c� phần kh�c hơn. Trước khi v�o đề,
d�n gian ta d�ng những "c�u hứng" gợi l�n
những hình tượng, sự việc, tình ý r�t ra từ
thi�n nhi�n xung quanh họ, từ cuộc sống hằng ng�y
của ch�nh họ, từ ký ức chung của d�n tộc
Việt Nam, n�n đã g�y được những tiếng
vang dội s�u rộng trong tiềm thức của người
nghe, g�y được trong t�m tư người nghe
một cảm gi�c th�ch th�, một sự biểu đồng
tình tha thiết để sẵn s�ng tiếp nhận
sự truyền đạt một c�ch dễ d�ng. C�c
"c�u hứng" l� những tiếng nhạc dạo trước
khi đ�n, l� b�i h�t rao tuồng để mở m�n trong
một tuồng h�t bộ ng�y xưa, l� một tập qu�n
trong việc ứng xử "lịch sự" l�u đời
của xã hội Việt Nam. Kh�c hẳn với c�c c�u
"thơ v� nghĩa" T�y phương ; c�c "c�u
hứng" của d�n ta d� c� gi� trị nghệ thuật,
t�m lý, xã hội thế n�o, cũng vẫn kh�ng t�ch ra
khỏi c�i nhu cầu đ�ng g�p, chuẩn bị cho tr�ch
vụ ch�nh yếu của nh� thơ l� truyền đạt
tình ý cho những người đang nghe.
Phương
thức truyền đạt tình ý của "thơ
viết" v� của "thơ truyền khẩu" c�
phần kh�c nhau. C�c thi nh�n "thơ viết" phải
theo phương thức ngữ ph�p h�a ng�n từ, còn c�c nh�
"thơ truyền khẩu" lại theo phương
thức kịch trường h�a ng�n từ. Nh� thơ
"chữ viết" c� thì giờ nhiều, n�n thường
cặm cụi gò dũa c�u văn theo ngữ ph�p b�c học
qui tắc chật hẹp, kh� khăn, còn nh� thơ
"truyền khẩu" phải ứng t�c tức
khắc v� ngay tại chỗ, trước quần ch�ng:
họ vừa l� t�c giả, vừa l� người diễn xướng,
vừa l� kịch nh�n, trọn quyền linh động
tận dụng mọi nghệ thuật ng�n từ của
m�n kịch. M� kịch trường ở đ�y ch�nh l� s�n khấu
đại qui
m� của cuộc sống xã hội hiện hữu hằng
ng�y của d�n gian ta. Do đ�, nghệ thuật thi ca
truyền khẩu rất phong ph�, linh động, lu�n lu�n
bu�ng t�ng theo c�c biến chuyển của xã hội, m� đổi
mới kh�ng ngừng. Gi�o sư Paul Zumthor đã kết
luận: "Ch�nh vì c�c lẽ ấy, n�n thi ca truyền
khẩu thường bao gồm nhiều qui tắc v�
phức tạp hơn thi ca s�ng t�c bằng chữ viết:
ở những xã hội m� tập tục truyền khẩu
chiếm ưu thế, thì thi ca truyền khẩu c� một
nghệ thuật đi�u luyện hơn phần đ�ng c�c t�c phẩm
s�ng t�c bằng văn tự." (9)
Nhưng đừng qu�n rằng nghệ thuật thi ca truyền
khẩu vốn l� nghệ thuật của "ng�n
ngữ-ký ức". V� muốn cho người nghe ghi
nhớ dễ d�ng v� bền l�u v�o ký ức, thì c�c c�u thơ
truyền khẩu phải ph� hợp với: nhịp vận động
của th�n hình con người, phải vang l�n những �m hưởng
của tiếng n�i con người, phải d�ng tưởng tuợng
con người
m� nhìn hình tượng, d�ng lý tr� con người m� thấy được
sự chuyển ý của văn ảnh c� đọng,
dẫn khởi. Như vậy, "ng�n ngữ-ký ức"
đòi hỏi trong c�c b�i ca dao, d�n ca một cấu tr�c x�y
dựng tr�n ba yếu tố: nhịp điệu, �m
hưởng v� hình tượng văn ảnh.
Vấn đề được đặt ra ở đ�y
l� ng�n ngữ Việt Nam ch�ng ta c� cung cấp cho thi ca
truyền khẩu (ca dao, d�n ca) đầy đủ c�c
yếu tố đặc th� ấy kh�ng? Nếu c� thì đến
mức độ n�o?
A. Nhịp điệu
Jean-Louis Joubert, gi�o sư đại học Sorbonne tại Paris, trong
t�c phẩm La Po�sie, c� giảng rõ: "Cấu tr�c thi ca
truyền khẩu đã bắt chước theo c�c điệu
bộ nhịp nh�ng của th�n hình, lối ng�m dằn
từng tiếng th�ch hợp với sự h� hấp.
Những phương thức đơn giản, trong đ�
điệu bộ v� ng�n ngữ chồng chất l�n nhau
(từng loạt c�c c�u c�n bằng v� mất c�n bằng, điệp
ngữ v� đối ngẩu, đối xứng v� xen
kẽ, song song v� bắt vần, v.v...) tạo điều
kiện dễ d�ng cho sự ghi nhớ v� bảo đảm
sự biểu đồng tình của cử tọa, đồng
thời cho ph�p s�ng tạo, bằng
ngữ thuật, những tạp diễn v� hạn định.
Sự hội nhập điệu bộ v� th�n hình v�o thi ca
vẫn tiếp diễn d� l� khi người ta rời xa
lối truyền khẩu. Ch�nh sự hội nhập
nầy đã cấu tạo n�n nhịp điệu, nhờ
đ� thơ được nổi bật hơn c�c c�ng
trình tạo t�c kh�c bằng chữ viết (10).
Sự hội nhập ng�n ngữ thi ca truyền khẩu
với điệu bộ của th�n hình con người, được
thể hiện trong ng�n ngữ Việt qua sự vận
dụng những tiếng k�p đ�i v� lối xen kẻ
nhiều tiếng k�p đ�i với nhau. Ng�n ngữ Việt
vốn c� rất nhiều tiếng k�p đ�i, l� những
tiếng gồm c� hai tiếng gh�p lại: hoặc 2 tiếng đều c�
nghĩa, như: rụng rời, n�ng nực, ng�y th�ng,
mờ mờ, nhẹ nhẹ..., hoặc 1 tiếng c�
nghĩa với 1 tiếng v� nghĩa, như: lạnh
lẽo, buồn bã, ngại ng�ng (lẽo, bã, ng�ng: l�
những tiếng v� nghĩa), hoặc 2 tiếng đều
v� nghĩa, như: thong dong, khắc khoải, tồng
ngồng, l�i th�i, v.v... D�n ta c� khuynh hướng d�ng
những rất nhiều tiếng k�p đ�i thay cho những
tiếng đơn đồng nghĩa, để cho c�u n�i
được nhịp nh�ng, c�n đối. Thay vì n�i "ao
thu lạnh" chẳng hạn, thì người ta lại
th�ch n�i "ao thu lạnh lẽo"; đ�ng lẽ chỉ
n�i "gặp nhau vui lắm " thì lại th�ch n�i
"gặp nhau vui vẻ lắm". Thay vì n�i "đi
chậm" thì lại th�ch n�i "đi chậm
chạp". C�c tiếng "lạnh, vui, chậm" c�
nghĩa, c�c tiếng "lẽo, vẻ, chạp" l�
những tiếng v� nghĩa, chỉ th�m v�o nghe cho nhịp
nh�ng, �m tai, hay cho ý nghĩa được tinh tế hơn.
C�c c�u thơ Việt được nhịp nh�ng c�n đối
l� do d�n gian đem những tiếng k�p đ�i xen kẽ
lại với nhau, để tạo th�nh hai vế đối
xứng nhau, như:
Nh�n duy�n th�ng đợi năm chờ,
Hai tiếng k�p đ�i
"năm th�ng" v� "đợi chờ" xen kẽ
nhau th�nh: "th�ng đợi / năm chờ".
Hơn nhau tấm �o, manh quần,
Hai tiếng k�p đ�i
"tấm manh", "a� quần" xen kẽ nhau th�nh:
"tấm �o / manh quần".
Gẫm xem thế sự thăng trầm,
Ba tiếng k�p đ�i
"xưa nay", "�ng thằng" v� "trắng trơn"
xen kẽ nhau th�nh: " Xưa �ng mặt trắng / nay
thằng mặt trơn" .
S�ng Ng�n h� dễ bắt cầu,
Bốn tiếng k�p đ�i
"trai g�i", "thương sầu", "vợ
chồng" v� "cũ xưa" xen kẽ th�nh hai
vế đối xứng: "Trai thương vợ
cũ / g�i sầu chồng xưa"...
Như
thế, d�ng tiếng k�p đ�i, v� xen kẽ c�c tiếng k�p đ�i
l� hai phương thức căn bản để x�y
dựng nhịp điệu trong thơ truyền khẩu
Việt Nam. C�c nh� thơ "chữ viết" nổi
tiếng nước ta, trước đ�y, cũng thường
vận dụng c�c tiếng k�p đ�i nầy. Chẳng hạn như
trong Đoạn
Trường T�n Thanh, đoạn "Kiều đi Thanh Minh"
(c�u 43 đến c�u 142), Nguyễn Du đã d�ng tr�n 30
tiếng k�p đ�i (n� nức, dập dìu, ngổn ngang, t� t�,
thơ thẩn, thanh thanh, nao nao, nho nhỏ, s� s�, dầu
dầu, x�n xao, mong manh, dầm dầm, đau đớn,
mòn mỏi, ph�i pha, gặp gỡ, lầm rầm, nhỏ to,
m� mẩn, tần ngần, ủ dột, vắn d�i,
nặng nề, �o �o, r�nh r�nh, hiển hiện, lai l�ng,
bồi hồi, d�ng dằng, gần gần, con con,... ) v� mười
mấy lối xen kẽ c�c tiếng k�p đ�i th�nh những
tiếng k�p bốn, ph�n ra l�m hai vế đối xứng
nhau:
"Tr�m bình", "gảy rơi" > Thì đ� tr�m
gảy, bình rơi bao giờ.
Văn
chương Đ�ng phương ch�ng ta thi�n nhiều về
sự đối xứng, nhưng trong thi văn Ph�p,
"sự đối xứng hay đối ngẫu... l�
một kh�i niệm mới xuất hiện gần đ�y,
m� tu-từ học cổ-điển kh�ng hề lưu t�m đến.
Khi Malherbe dịch c�c b�i thơ Thi Thi�n trong Th�nh Kinh
(Psaumes), hình như �ng kh�ng nhận thấy rằng căn
bản thi ca Th�nh Kinh đã x�y dựng tr�n những đối
ngẫu, v� trong bản dịch sang Ph�p văn, �ng kh�ng
hề tìm c�ch phục nguy�n lại c�c lối đối
ngẫu ấy." (11)
C�c văn
thi sĩ Ph�p cũng kh�ng hay d�ng đến lối đối
ngẫu trong c�c t�c phẩm, v� trong lý luận văn học
của họ cũng kh�ng b�n cập đến vấn đề
ấy. Tuy vậy, d�n gian Ph�p vẫn theo lối đối
ngẫu m� s�ng tạo ra nhiều c�u ca dao, tục
ngữ� c�n đối, như:
"Loin des yeux, loin du coeur" (xa mặt, c�ch lòng), "Apr�s
la pluie, le beau temps" (hết mưa, lại nắng),
"Tel p�re, tel fils" (cha n�o, con nấy), "Oeil pour oeil,
dent pour dent" (ăn miếng, trả miếng), "La
parole est d'argent, le silence d'or" (lời n�i l� bạc, im
lặng l� v�ng)... Như thế, l� vì d�n gian Ph�p (cũng như
d�n gian Việt hay bất cứ sắc d�n n�o kh�c tr�n
thế giới) bao giờ cũng theo qui luật tự
nhi�n chung của con người về nhịp thở v�
về nhịp cử động th�n hình, m� cấu tạo
ra những c�u nhịp nh�ng, đối xứng, để
cho dễ n�i, dễ thuộc, dễ nhớ.
B. �m hưởng
�m hưởng
ở thi ca truyền khẩu Việt Nam lu�n lu�n được
gắn liền với nhịp điệu. �m hưởng
ở đ�y chỉ chung tiếng n�i, lời n�i của con
người Việt Nam, một tiếng n�i c� �m vận v�
�m thanh thật phong ph�. �m vận chỉ những tiếng
c� vần với nhau. Hai tiếng vần với nhau trước
hết phải c� một �m căn bản như nhau (�m căn
bản l� những �m chưa c� dấu giọng), rồi
nếu th�m c�c dấu giọng thì ta sẽ c�:
Vần
bằng l� những tiếng c� dấu huyền
v� tiếng kh�ng dấu vần với nhau, tỉ dụ như
"mơ" vần với "mờ",
với "cờ", với "tơ"
(c�ng một �m căn bản "ơ"); "t�i"
vần với "mai", với "đ�i"
(c�ng một �m căn bản "ai"); "thương"
vần với "lường", với "chương"
(c�ng một �m căn bản "ương")...
Vần
trắc l� những tiếng c� dấu sắc,
dấu ngã, dấu hỏi, dấu nặng vần với
nhau, tỉ dụ như "c�" vần với
"thỏ", với "mõ", với
"họ" (c�ng một �m căn bản "o");
"c�ng" vần với "hảng",
với "lãng", với "trạng"
(c�ng một �m căn bản "ang"), v.v...
Về
vị tr� của vần trong c�u, ta c� hai loại: Cước
vận (cước = ch�n), l� những vần gieo v�o c�c
tiếng ở cuối c�u, v� y�u vận (y�u = lưng),
l� những vần gieo v�o tiếng ở lưng chừng
c�u. �m vận cũng l� một loại điệp ngữ (điệp
�m) lặp lại nhiều lần c�c �m căn bản c�ng
một thanh.
Đặc điểm của ca dao Việt l� vừa c� cước
vận vừa c� y�u vận.
Ca dao T�u chỉ c� cước vận, kh�ng c� y�u vận, như
ở b�i ca dao Tịnh Nữ trong Quốc phong, (Kinh
Thi) dưới đ�y:
Tịnh nữ kỳ th�,
(Dịch: C� g�i
dịu d�ng xinh đẹp, đợi ta ở g�c th�nh. Y�u m�
kh�ng được gặp, Ta xoa đầu băn khoăn).
So với b�i ca dao Việt sau đ�y:
Chồng gì anh, vợ gì t�i ?
Ta thấy b�i ca dao T�u 4 c�u chỉ c� 3 tiếng cước
vận m� th�i: "th�", "ngu" v� "tr�" ở
cuối c�c c�u 1, 2 v� 4. Còn b�i ca dao Việt cũng 4 c�u m� c� đến
5 tiếng bắt vần: Cước vận: "đ�y"
vần với "tay". Y�u vận: "t�i" vần
với "đời", "tay" vần với
"nay".
Ch�ng t�i
nhận thấy c� nhiều y�u vận trong "thơ truyền
khẩu" của d�n Mạ (Thượng Việt ở
Cao nguy�n Trung phần) v� d�n L�o, [m� theo Bình Nguy�n Lộc, t�c
giả Nguồn gốc Mã Lai của d�n tộc Nam, đ�
l� những sắc d�n vốn c�ng một t�ng Malai (Malaya)
với ch�ng ta. (12)] thơ bình d�n L�o sau đ�y:
Xa th�, xa gio, mư xay kậu,
(Dịch: Chắp tay l�n tr�n k�nh cẩn thưa: Kẻ t�i tớ nầy xin
kể lại sau đ�y, theo cổ t�ch từ đời xưa
truyền lại về đoạn vua Khun Bu R�m).
� Bốn c�u m� c� đến 6
tiếng y�u vận: "kậu" vần với
"chậu"; "nan" vần với "than";
"koòn" vần với "boòn".
V� ở b�i ca dao Mạ:
Oi puu' taany mang, ���������
(Dịch tho�t: Chăn "puu' " dệt ban tối, chăn "pang"
dệt ban ng�y, chăn "đờ-rai" dệt ng�y lẫn đ�m).
Bốn c�u c� đến 6
tiếng y�u vận: "mang" vần với
"pang"; "ngai" vần với "đờ-rai",
v� "ngai".
C� người
cho rằng �m vận hiện nay trong thi ca truyền khẩu
Việt Nam l� kết quả của sự hòa nhập
giữa cước vận T�u với y�u vận L�o,
Mạ... N�i một c�ch ch�nh x�c hơn nữa, (vẫn theo
Bình Nguy�n Lộc) Việt Nam vốn c�ng chung một t�ng Malai
(Malaya) với L�o, Mạ, n�n tất nhi�n đã c� sẵn y�u
vận, về sau chịu ảnh hưởng văn h�a T�u,
n�n ch�ng ta thu nhận th�m cước vận (tỷ
lệ : 1 cước vận / 2 hoặc 3 y�u vận) để
tạo ra c�c thể lục b�t, song thất lục b�t ng�y
nay. Nhìn chung, "điệp ngữ" (điệp �m)
của �m vận đã hòa nhập với "đối
xứng" của nhịp điệu, khiến cho ng�n
ngữ Việt Nam trong thi ca truyền khẩu nghe du dương,
�m tai, gi�u nhạc t�nh. M� nhạc t�nh, theo định
nghĩa nguy�n thủy trong văn học T�y phương l�
bản thể của thi ca: "Thơ l� nhạc của
t�m hồn" (Voltaire), "Thơ l� tham vọng của
ng�n từ muốn chứa đựng cho được
nhiều ý hơn, pha trộn với nhiều nhạc hơn,
m� ng�n ngữ th�ng thường kh�ng chứa đựng v�
kh�ng thể chứa đựng được" (Val�ry) (13).
�m thanh
trong ng�n ngữ Việt chỉ chung c�c giọng d�i,
giọng ngắn của tiếng Việt. Tiếng Việt
c� nhiều dấu, ph�n th�nh hai loại. Tiếng bằng,
giọng �m dịu, c� thể k�o d�i ra được, như
những tiếng kh�ng c� dấu v� những tiếng c�
dấu huyền. Tiếng trắc, giọng ngắn
ngủn, kh�ng đọc d�i ra được, như
những tiếng c� chữ c, ch, p, t đứng ở
cuối tiếng v� những tiếng c� dấu sắc,
nặng, hỏi, ngã. Trong những tiếng bằng v�
tiếng trắc, tiếng n�o cũng c� thứ tiếng
bổng v� tiếng chìm. Tiếng bổng trong tiếng
bằng l� những tiếng thượng bình thanh,
kh�ng c� dấu; tiếng chìm trong tiếng bằng l�
tiếng hạ bình thanh, c� dấu huyền. Tiếng
bổng trong tiếng trắc l� những tiếng c� dấu
sắc v� dấu ngã, tiếng chìm l� những tiếng c�
dấu hỏi v� dấu nặng. Những tiếng
bằng, trắc ở ca dao thường d�ng để
ngắt đoạn trong c�u, nhấn mạnh v�o c�c nhịp điệu.
Thể
thơ l� hậu quả của sự hòa nhập giữa
nhịp điệu, �m thanh v� �m vận. Ch�nh c�ch ngắt
c�u, ngắt đoạn (nhịp điệu), c�ch đặt
v� đổi chỗ c�c tiếng trắc, tiếng bằng
v�o tiếng ch�t của mỗi đoạn c�u (�m thanh) v�
� c�ch gieo y�u vận hay cước
vận v�o những vị tr� n�o trong to�n b�i (�m vận), đã
quyết định cấu tr�c của c�c "thể thơ"
trong thi ca truyền khẩu d�n ta. C�c nh� văn học thường
ph�n thi ca truyền khẩu ra th�nh ba thể: thể n�i
lối (những c�u từ 2 đến 5, 6 tiếng),
thể lục b�t ch�nh thức (cứ 1 c�u lục 6
tiếng v� một c�u b�t 8 tiếng đi cặp với
nhau) v� thể song thất lục b�t ch�nh thức (gồm c�
hai c�u thất, mỗi c�u 7 tiếng v� hai c�u lục b�t).
Luật thơ do c�c nh� Nho ng�y xưa đã căn cứ v�o
những c�u thơ lục b�t hay song thất lục b�t đã
th�nh hình m� đặt ra luật thơ với
nhiều qui lệ, song ch�nh yếu ta nhận thấy c�:
1. Tiết tấu (c�ch ngắt đoạn trong c�u): mỗi c�u c� ba hay 4 đoạn,
mỗi đoạn c� 2 hay 3 tiếng, qui định như
sau: c�u thất 3/2/2, (kh�c với c�c c�u thất trong thơ
T�u 2/2/3); c�u lục 2/2/2, c�u b�t 2/2/2/2. Trong mỗi c�u,
những tiếng ch�t c�c đoạn phải lần lượt
trắc rồi bằng, hay bằng rồi trắc, một
qui luật m� Ho�i Thanh gọi l� "luật đổi
thanh" (Thi nh�n Việt Nam, 1942) theo biểu đồ
sau đ�y:
Thể lục b�t
C�u lục���������� 0 B / 0 T / 0 B
Thể song thất lục b�t
C�u thất 1���� 0 0 T / 0 B / 0 T
Ch� th�ch: 0 = tiếng kh�ng
buộc trắc hay bằng; 0 B1 / 0 B2 = hễ B1 thanh bằng bổng, kh�ng c�
dấu, thì B2 thanh bằng chìm, c� dấu huyền, v� ngược
lại.
Xin lưu ý : "Luật đổi
thanh" ấy cũng kh�ng khỏi c� một v�i biến
dạng, ngoại lệ:
a. Biến dạng: �đoạn
cuối c�c c�u b�t, theo đ�ng "luật đổi
thanh" phải� l� 0 B,
nhưng lại l� 0 B1 / 0 B2. Vì sao? Theo thiển ý ch�ng t�i, thì
hai đoạn 0 B1 / 0 B2
nầy c� thể coi như l� một đoạn
c� tiếng ch�t thanh bằng 0 B, nhưng tiếng ch�t
thanh bằng B ấy được k�o d�i ra để
chấm dứt c�u v� chấm dứt theo hai �thuật
kết c�u� như sau:
Hoặc ng�n
kết, k�o d�i thanh bằng ra qua một (v�i) tiếng
thanh bằng kh�c, để kết c�u theo c�ng thức (B b
B), v� dụ:
Người kh�n, ai chẳng n�ng niu
Hoặc l�y kết, đưa giọng l�n cao l�y qua
một tiếng trắc, rồi trở lại thanh bằng để
kết c�u theo c�ng thức (B t B):
Con cò trắng to�t như b�ng
Ng�n kết theo c�ng thức (B b B): "chiu tr�n c�nh",
"chồng cò ơi"; l�y kết theo c�ng thức (B t B):
"kh�ng chịu v�o", "đ�m lấy nhau", l�
những �thuật kết c�u�, �kết b�i� thường d�ng
trong cổ nhạc, trong d�n ca ch�ng ta. Như thế, c�c
tiếng ch�t ở hai đoạn cuối c�c c�u b�t, nếu
tiếng trước thanh bằng (B1) kh�ng dấu (bằng
bổng), thì bắt buộc tiếng sau (B2) phải thanh
bằng c� dấu huyền (bằng chìm), v� ngược
lại. Đ� cũng l� một hình thức "đổi
thanh", song mức độ nhẹ hơn: vẫn ở
trong thanh bằng, m� k�o d�i từ thanh bằng bổng
xuống thanh bằng chìm, hay ngược lại từ
thanh bằng chìm l�n thanh bằng bổng.
b. Ngoại lệ: Tiếng ch�t của đoạn
đầu c�u thất (trong song thất lục b�t), theo "luật
đổi thanh" phải l� tiếng trắc, nhưng
nếu hai c�u bảy đặt
th�nh 2 c�u s�ng nhau, (hoặc đối, hoặc kh�ng đối),
thì c� thể l� một tiếng thanh bằng, như ở
c�c b�i dưới đ�y:
Của của trời (B) ai chăm
(B) thì được (T)
2. C�ch gieo vần trong thi ca truyền khẩu ta theo như
trong c�c biểu đồ dưới đ�y:
Thể lục b�t
C�u lục�������� �0 B��� 0 T�� 0 B (cvb)
Thể song thất lục b�t
C�u thất 1���� 0 0 T�� 0 B ��������� 0 T (cvt)
Ch� thích: (cvb) = cước vận bằng; (cvt) = cước
vận trắc; (yvb) = y�u vận bằng; (yvt) = y�u vận trắc.
B�i ca
dao hay d�n ca n�o cấu tr�c đ�ng y như tr�n thì gọi l� "lục
b�t ch�nh thức" hay "song thất lục b�t ch�nh
thức". Còn b�i n�o tuy c�ch ngắt đoạn trong c�u v�
c�ch gieo vần đ�ng luật, nhưng số tiếng
trong mỗi đoạn kh�ng đ�ng với số
tiếng luật thơ qui định, thì gọi l� "lục
b�t biến thức", như:
N�i lời / anh chẳng / giữ lấy lời
(C�u lục đáng lẽ 6 tiếng thì lại 7 tiếng, c�u b�t đ�ng lẽ
8 tiếng thì lại 11 tiếng)
Hay gọi l� "song thất lục b�t biến thức",
như:
Ới anh ơi / c� xa / thì xa cho mất
(Đ�ng lẽ 7 tiếng, m� c�u thất một lại 9 tiếng, c�u
thất hai lại 8 tiếng, c�u lục đ�ng lẽ 6
tiếng thì lại 8 tiếng, c�u b�t đ�ng lẽ 8
tiếng thì lại 10 tiếng).
B�i Kỷ, trong Quốc Văn Cụ Thể, c� nhận
x�t rằng: "Lục b�t l� lối văn ri�ng của ta m�
T�u kh�ng c�. Ph�t nguy�n bởi những c�u ca dao, phương
ng�n, ngạn ngữ đời cổ, kỳ thủy
mỗi c�u hoặc 4 chữ, hoặc 5, hoặc 6...chữ,
kh�ng nhất định, dần dần dựa v�o �m tai, đọc
ra thuận miệng, th�nh ra một thứ �m điệu...
cứ c�u 6 tiếng tiếp theo lu�n c�u 8 tiếng, cho n�n
gọi l� lục b�t". (14)
Theo chủ trương nầy (c�c c�u thể "n�i
lối" nguy�n thủy đã theo thời gian chuyển h�a
dần dần th�nh ra c�c thể "lục b�t" v�
thể "song thất lục b�t"), ch�ng t�i xin đưa
ra một giả thiết về lai lịch của ca dao,
theo một qu� trình chuyển h�a tưởng tượng, như
sau:
a. Chuyển
h�a từ "n�i lối" th�nh ra "lục b�t" :
Lấy một b�i ca dao thể "n�i lối" 4 c�u dưới
đ�y:
1. B�ng khu�ng, b�t ng�t,
Nếu gh�p c�u 1 với c�u 2
lại với nhau v� bỏ hai tiếng "b�t ng�t", ta
c� một "c�u lục", gh�p c�u 3 v� c�u 4 lại, ta c�
một "c�u b�t", cả hai c�u lục v� b�t hợp
lại th�nh một cặp "lục b�t biến
thức":
B�ng khu�ng em h�t hữu tình,
b. Chuyển
h�a từ "n�i lối" th�nh ra "song thất lục
b�t" : Lấy một b�i ca dao gồm c�
s�u c�u (4 c�u n�i lối v� 2 c�u lục b�t) sau đ�y:
1. Gi� hiu hiu, �������
Nếu gh�p c�u 1 v� c�u 2 với nhau, ta c�
c�u thất thứ nhất, gh�p c�u 3 v� c�u 4 với nhau, ta c�
c�u thất thứ nhì. Hợp lại với c�u 5 v� c�u 6 l�
hai c�u "lục b�t", ta sẽ c� b�i "song thất
lục b�t biến thức":
Gi� hiu hiu, ch�n chiều ruột thắt,
Hoặc từ b�i ca dao 6 c�u sau đ�y:
1. Dãy dọc tòa ngang, �����
Nếu gh�p c�u 1 với c�u 2 th�nh c�u
thất thứ nhất, gh�p c�u 3 với c�u 4 th�nh c�u
thất thứ nhì, hợp lại với c�u 5 v� c�u 6, ta c�
b�i thể "song thất lục b�t biến thức":
Dãy dọc tòa ngang, gi�u sang c� số. ��
c. Chuyển h�a từ
"n�i lối" th�nh ra thể "thất thất b�t".
Trong khi tham khảo một số s�ch sưu
tập về ca dao như Văn nghệ d�n gian
Quảng Nam Đ� Nẳng của Nguyễn Văn Bốn,
Tục ngữ Ca dao của L� Gia, D�n ca Ki�n Giang
của Lưu Nhất Vũ, Nguyễn Văn Hoa, L� Giang, Việt
Nam văn học bình d�n của Nguyễn Tr�c Phượng...
ch�ng t�i thấy c� tr�n 100 b�i� ca
dao, mỗi b�i gồm c� hai c�u thất (7 tiếng) v� một
c�u b�t (8 tiếng) m� ch�ng t�i gọi l� "thất thất
b�t", theo cấu tr�c b�i sau đ�y:
Thiếp xa ch�ng, h�i d�u qu�n giỏ, (7 tiếng)
Cũng theo giả
thiết tr�n, lấy b�i thể "n�i lối" 6 c�u sau đ�y:
1. Canh hãy còn khuya,
Nếu gh�p c�u 1 v� 2, th�nh c�u thất thứ nhất, gh�p hai c�u 3 v�
4, th�nh c�u thất thứ nhì, rồi gh�p hai c�u 5 v� 6 th�nh c�u
b�t, ta sẽ c� một b�i thể "thất thất
b�t" biến thức như sau:
Canh hãy còn khuya, đường về thăm
thẳm, ������
V� dưới đ�y, ch�ng t�i xin tr�ch một số c�u ca dao thể
"thất thất b�t" biến thức tr�ch từ c�c
s�ch sưu tập về ca dao kể tr�n, để qu�
vị độc giả rộng đường nhận x�t:
1. T�i đi ngang nh� m�,
1. Thương chi m� bạn thương v�
cớ,
1. Kết phứt đi, đ�y duy�n, đ� nợ,
1. Xa l�m chi m� xa quanh, xa quất,
1. Khổ chi p hận em,
cha chả l� cam phận khổ,
Trư�c đ�y, trong khi sưu tầm,
cũng c� lần gặp một v�i b�i ca dao gồm c� 3 c�u như
thế, ch�ng t�i cứ tưởng l� người bi�n
soạn ch�p sai, hay nh� in sắp chữ xuống h�ng kh�ng đ�ng.
Về sau vì nhận thấy số ca dao "thất
thất b�t" gặp được cũng kh� nhiều,
v� do những nh� văn học bi�n soạn kh�c nhau, n�n ch�ng
t�i đặt th�nh vấn đề, m� sưu tầm s�u
rộng hơn, v� tự hỏi c� phải đ�y l� một
thể trung gian giữa thể "lục b�t" v�
thể "song thất lục b�t" chăng? V� vì sao
những s�ch sưu tầm cũ hơn, như Tục
ngữ - Phong dao của Nguyễn Văn Ngọc, Thanh
H�a quan phong� của Vương
Duy Trinh chẳng hạn, hay ở một số s�ch tham
khảo về thi ca bình d�n gần đ�y, kh�ng thấy ghi
c�c c�u ca dao thể "thất thất b�t" nầy?
Ch�ng t�i nghĩ rằng c� lẽ vì ng�y trước,
ca dao miền Bắc đã tiến đến mức độ
cao hơn miền Nam rất nhiều, truyện Kiều được
phổ biến s�u rộng trong đ�m bình d�n, phong tr�o d�n ca
trong c�c hội h� được thịnh h�nh đã l�u, n�n
những c�u ca dao "thất thất b�t" đã phải
nhường chỗ cho những c�u ca dao thể
"lục b�t" v� "song thất lục b�t" b�c
học ho�, l� c�c thể được coi như mẫu
mực phải theo. Còn c�c nh� bi�n soạn gần đ�y, c�
lẽ cho những c�u thể "thất thất b�t"
nầy kh�ng đ�ng mẫu mực, kh�ng v�o luật thơ
n�o cả, n�n kh�ng tuyển tr�ch lại chăng?
Cũng xin lưu ý rằng những c�u ca
dao "thất thất b�t" m� ch�ng t�i đã sưu
tầm được cho đến nay, hầu hết đều
xuất xứ ở miền Trung v� miền Nam, cho n�n khi
bỏ vần, c�c nh� thơ d�n gian kh�ng ch� trọng đến
phụ �m cuối tiếng, như "v�ng" vần
với tiếng "than", hay lẫn lộn c�c �m căn
bản cuối tiếng, như "liềm" vần với
"chìm", v. v... C�c nh� Nho đã căn cứ v�o c�c b�i
"lục b�t" v� "song thất lục b�t" đã
c� gi� trị nghệ thuật mức độ cao, để
l�m ra c�c "luật thơ" như vừa thấy tr�n đ�y,
m� hiện nay đang còn được giảng dạy
ở c�c lớp văn khoa. Nhưng khi nhìn lại một
c�ch bao qu�t c�c thể thơ truyền khẩu, từ
thể gọi l� biến thức đến thể gọi
l� ch�nh thức, ch�ng t�i tự hỏi c� thể c� được
một "luật thơ" n�o kh�c đơn giản hơn
c�c luật thơ do c�c nh� Nho l�m ra, để chi phối
chung tất cả c�c b�i thi ca truyền khẩu của ta
kh�ng?
Năm 1942, trong Thi nh�n Việt Nam,
Ho�i Thanh v� Ho�i Ch�n đã nhận thấy c� một luật
thơ m� c�c t�c giả gọi l� "luật đổi
thanh": "Luật đổi thanh rất tự nhi�n trong thơ
Việt vẫn chi phối hết thảy c�c thể thơ".
Với lời ký ch� th�m: "Hễ c�u thơ chia l�m hai, ba
hay bốn đoạn, những chữ cuối c�c đoạn
phải lần lượt bằng rồi trắc, hay
trắc rồi bằng".
(15)
Từ đ�, ch�ng t�i để t�m kiểm chứng thì
thấy phần lớn c�c b�i "thơ mới" (m�
ch�ng t�i đã c� dịp đọc qua) đã cấu tr�c đ�ng
theo luật ấy. Chẳng hạn như mấy c�u ở
b�i Lời Kỹ nữ của Xu�n Diệu:
Kh�ch ngồi lại (T) c�ng em (B) trong chốc nữa
(T),
Cũng như mấy c�u ở b�i Nhớ
rừng của Thế Lữ:
Gặm một mối (T) căm hờn� (B)� trong
cũi sắt (T),
Mấy c�u ở b�i Tiếng thu
của Lưu Trọng Lư:
Em kh�ng nghe m�a thu
Ch�ng t�i
cũng c� dịp kiểm chứng th�m c�c b�i h�t n�i thời xưa,
như mấy c�u của Nguyễn C�ng Trứ:
Vòng trời đất
(T) dọc ngang (B) ngang dọc (T)
Cũng như mấy c�u của Cao B� Qu�t:
Ba vạn (T) s�u nghìn ng�y (B) l�
mấy (T)
Nhất
l�, ch�ng t�i cố ý tìm xem "luật đổi thanh"
nầy c� chi phối thi ca truyền khẩu kh�ng? Từ
mấy c�u thể "n�i lối" của đồng dao:
Chập (T) chầm v�ng (B)
Đến mấy c�u ca dao "lục b�t biến thể":
Nhiều nơi
(B) ph� quý (T) em cũng chẳng m�ng (B)
Mấy c�u thể "song thất lục b�t biến thể":
Tr�c phải (T) xa mai (B) thì ho�i tr�c lứa� (T)
Cho đến mấy c�u thể "thất thất b�t" :
Ni�n kỷ (T)�cũng đồng (B) ni�n
kỷ (T)
Ch�ng t�i nhận thấy rằng trừ một v�i ngoại lệ,
nhìn chung "luật đổi thanh" cũng chi phối
phần lớn c�c b�i thơ truyền khẩu của d�n ta.
Ri�ng về c�c thể gọi l� "biến thức",
lối ngắt đoạn trong c�u đòi hỏi phải
ph� hợp với ý nghĩa, với tình tự của d�n
gian, n�n c� đoạn d�i, đoạn ngắn kh�c nhau, t�y
theo sự cảm x�c của nh� thơ, nhờ đ� thi
phẩm được sống động, tình ý được
bu�ng t�ng, lời thơ được hồn nhi�n hơn.
C. �Hình tượng v� văn ảnh
Hình tượng
v� văn ảnh l� th�nh tố kh�ng k�m phần quan trọng
trong cấu tr�c thi ca truyền khẩu. Ng�n ngữ Việt
Nam lại l� một ng�n ngữ vận dụng rất
nhiều hình tượng v� văn ảnh trong c�c c�u
chuyện thường ng�y giữa d�n gian với nhau, như:
theo đòi "b�t nghi�n", tình "chăn gối", tay
"dao b�a ", bọn "đầu tr�u mặt
ngựa", th�n "bồ liễu", kiếp "giang
hồ", nợ "n�i s�ng", lời "trăng
hoa", cuộc "bể d�u", đời "mưa
gi�", "sửa t�i n�ng khăn", "cò bay thẳng
c�nh", "treo dầu heo b�n thịt ch�", "ăn
ch�o đ� b�t", "gảy đ�n lỗ tai tr�u"...
Hình tượng
v� văn ảnh tạo ra những x�c cảm mãnh liệt
tối đa, để những cảm gi�c ấy sẽ
dẫn khởi t�m tư người nghe đến
những vấn đề cao rộng hơn, những
vấn đề li�n hệ đến th�n phận của
con người, đến ho�i vọng nghìn năm của
cả một d�n tộc. Ng�n ngữ Việt đã đưa
v�o thơ truyền khẩu rất nhiều hình tượng,
văn ảnh, kể từ lối tỉ dụ, ho�n
dụ� th�ng thường nhất,� lấy sự
vật nầy so s�nh hay thay thế cho sự vật kh�c
(tỉ: so s�nh; ho�n: đổi, thế), như ở c�u:
Khi n�n, tay kiếm, tay cờ,
"Tay" l� một bộ phận thay
thế cho to�n thể l� "con người". "Tay
kiếm, tay cờ" thay thế cho "con người c�
uy quyền, chức phận".
Cha còn g�t đỏ như son,
"G�t đỏ, g�t đen" l� lấy hậu quả của
cuộc đời sung sướng, cuộc đời
khổ sở.
Cho đến lối ẩn dụ l� một tỉ dụ kh� nhận
thấy (ẩn: che đậy) d�ng c�ch gh�p c�c hình tượng
so s�nh để hội nhập lại th�nh một văn
ảnh.
Mua kim đi chọn lưỡi c�u, �
Mua lưỡi
c�u để may, mua giống bầu để trồng b�!
Qua ẩn dụ nầy, người nghe ngầm hiểu
rằng người con g�i dụng ý ch� người con trai đã
lầm lẫn�trong khi đi
chọn lựa lứa đ�i. C� phần kh�c với
"hình tượng", "văn ảnh", theo Andr� Breton,
l� một s�ng tạo của tr� �c thuần t�y. Văn
ảnh kh�ng thể ph�t sinh từ một sự so s�nh
giữa hai sự vật tương tự, m� từ
một sự đưa hai thực tại xa c�ch nhau đến
gần s�t lại với nhau. Mối li�n hệ giữa hai
thực tại c�ng xa c�ch, c�ng ch�nh x�c, thì văn ảnh c�ng
mãnh liệt... c�ng c� nhiều cường lực x�c
cảm, c�ng c� nhiều thực chất thi vị hơn
" (16). �Chẳng hạn như ở b�i ca dao sau đ�y:
R� rừng thì c� hươu mang,
Sự vật ch�nh muốn trình b�y kh�ng
thấy n�i rõ ra. Người nghe, người đọc
phải suy đo�n để hiểu. Nhưng mỗi người
c� thể suy đo�n một c�ch kh�c nhau. Ri�ng phần ch�ng
t�i, thì xin hiểu những c�u nầy như sau: Trước
khi gặp nhau, trong sinh họat mưu sinh hằng ng�y, trai
cũng như g�i đã c� bao nhi�u dịp được
gặp gỡ nhau trong rừng, dưới suối, tr�n một
chuyến đò, giữa một phi�n chợ..., v� đã c�
bao nhi�u mối tình ngắn ngủi, tho�ng qua. Những hình
ảnh song đ�i "hươu mang, măng giang",
"đò dọc, đò ngang", "chợ b�a, mụ b�n
h�ng" v� c�c m�i trường
"rừng r�, khe suối, đò đưa, chợ
b�a", hội nhập lại th�nh bao nhi�u hình tượng
n�i l�n c�c cuộc dan d�u ngắn ngủi ấy. Nhưng h�m
nay, ch�ng trai v� c� g�i gặp nhau được, quyết tình
x�y dựng l�u d�i, thì "ai m� rồi trả nấy",
chấm dứt với những mối tình bốc đồng,
tho�ng qua ng�y xưa. C�c hình ảnh "hươu mang
trả lại cho r� rừng, măng giang trả lại cho
khe suối", đò giọc trả lại đò ngang,
chợ b�a trả lại mụ b�n h�ng, hai tiếng trả
lại được lặp tới lặp lui để
nhấn mạnh v�o ý định muốn thanh to�n tình
cảm với qu� khứ một c�ch sòng phẳng v� dứt
kho�t. To�n b�i l� một văn ảnh gi�p cho ch�ng trai hay c� g�i
kia c� thể trình b�y với nhau một c�ch k�n đ�o về điều
kiện ti�n quyết trước khi lấy nhau l�
"cả đ�i b�n phải đoạn tuyệt với
tất cả c�c mối tình nhăng nh�t của mình trong
dĩ vãng". Đ� l� điều, m� ở thời xưa,
giữa trai g�i mới quen nhau, kh� m� c� thể n�i trắng
trợn ra được.
V� ta c� thể hiểu thế n�o qua
mấy c�u dưới đ�y ?
Đố ai biết l�a mấy c�y, �����
Sự
li�n hệ giữa c�c thực tại trong mấy c�u nầy
vừa phức tạp vừa xa c�ch nhau l�m cho người
nghe, mỗi người c� thể hiểu một c�ch, như:
"Trời sinh ra gi� thì phải thổi, cũng như
Trời sinh ra con người thì phải y�u thương. L�
rụng l� hậu quả của gi� thổi, cũng như đau
khổ, mất m�t l� hậu quả của tình y�u! Khuy�n được
lo�i người đừng y�u thương, cũng
giống như đếm số c�y l�a, đếm kh�c s�ng,
đếm từng m�y, qu�t sạch l� trong rừng, l�
những điều kh�ng thể l�m được. M� đố
ai� l�m được, thì t�i sẽ bảo� những kẻ
y�u thương ở đời nầy đừng đau
khổ nữa!"
Nhưng
cũng c� người hiểu c�u ca dao nầy một c�ch
kh�c hơn:� "Gi� thổi l�m
cho l� phải rụng cũng như miệng tiếng người
đời đã l�m cho bao nhi�u tình y�u phải bị lung lay.
Đố ai ngăn chận được miệng
tiếng người đời! Đ� l� việc kh� l�m được
(cũng như như đếm l�a, đếm kh�c s�ng, đếm
tầng m�y, hay qu�t sạch l� rừng). Miệng tiếng người
đời tất nhi�n kh�ng ngăn chận được...
vậy cứ mặc cho gi� rung gi� thổi, l�m xao xuyến,
lung lay... song (hiểu ngầm rằng) "rung sao cho
chuyển lòng anh với n�ng!" -- một b�i ca dao kh�c m�
nhiều người đã biết:
Tr�n trời c� đ�m m�y xanh, �
Về hai c�u ch�t, người nghe c� thể suy đo�n kh�c nhau:
C� người
cho rằng "l�ng m�y c� g�i sắc lắm c� thể đ�m
chết c� của mình, cho n�n ch�ng trai mới bảo c� g�i đừng
rửa ở hồ ấy". N�i như thế để
ngụ ý khen mắt c� g�i đẹp, sắc b�n, tình tứ
lắm...
M� cũng c� người cho rằng hình ảnh c� g�i rửa
l�ng m�y cho ph�p ta nghĩ l� c� ấy kh�c. Kh�c, nước
mắt r�n rụa, n�n đến rửa l�ng m�y tại
hồ nầy. Vì sao mới lấy chồng m� kh�c? Nếu
kh�c vì nhớ cha mẹ, nhớ gia đình, thì ch�ng trai đến
an ủi, nựng dỗ, sao lại cấm đo�n? C�
phải l� c� ta kh�c vì nhớ ai kh�c kh�ng? N�i trắng ra, ch�ng
trai mượn hình ảnh nầy để n�i với c�
g�i rằng: "Anh cưới em về nưng niu như
thế, thì em đừng nhớ thương những tình
cũ nghĩa xưa m� than l�n kh�c thầm, l�m cho chết
cả lòng anh", (chết c� ao anh).
Thật ra, một thi phẩm kh�ng bao giờ chỉ c� một ý
nghĩa đơn độc, m� thường c� nhiều
ngụ ý ẩn dụ kh�c nhau. Văn h�o Ph�p, Paul Val�ry, đã
từng cảnh c�o rằng: "Đ�y l� một sai lầm
phản lại t�nh chất của thơ, đến c�
thể giết chết thơ đi, khi ta khẳng định
rằng mỗi một thi phẩm chỉ tương
ứng với một ý nghĩa đ�ng thật, độc
nhất v� ph� hợp hay đồng nhất với một
ý tưởng của t�c giả m� th�i". (17)
"Ẩn
dụ" l� một đặc t�nh cố hữu của
d�n tộc ta. Ng�y xưa, d�n gian �t khi n�i rõ r�ng (trắng
trợn) tình cảm, ý nghĩ của mình ra, tr�i g�i tỏ
tình với nhau cũng chỉ n�i gần, n�i xa, d�ng những
hình ảnh so s�nh, ho�n dụ, nhất l� "ẩn
dụ" m� th�i. N�i như thế, ai muốn hiểu
thế n�o thì hiểu. T�n trọng sự tự do suy
luận của người nghe. Nếu hiểu đ�ng
với t�m sự mình thì đ� thật l� "tri �m tri
kỷ", như B� Nha v� Chung Tử Kỳ ng�y xưa! Còn
kh�ng, thì cũng chỉ vì kh�ng c� duy�n nợ
với nhau th�i, c� tiếc cho lắm cũng chẳng biết l�m sao!
T�m lại, ở đ�y
t�nh chất thi ca của ca dao v� d�n ca Việt chỉ được
phơi b�y dưới một kh�a cạnh nhỏ của
ng�n ngữ học, kh�a cạnh của một "ng�n
ngữ-ký ức". Chỉ dưới một kh�a
cạnh nhỏ ấy th�i, cũng đủ cho ch�ng ta
nhận ch�n được gia t�i "gi�u sang" m� �ng cha
ch�ng đã lưu lại cho con ch�u: một kho v� tận
của những tiếng k�p đ�i, với ngữ thuật
xen kẻ k�p đ�i th�nh những c�u thơ c�n đối
nhịp nh�ng, hội nhập với bao nhi�u �m vận, �m
thanh dồi d�o, quyến rủ, đầy nhạc t�nh,
bản thể cố hữu của thi ca. Cũng đủ
cho ta thấy �ng cha ta từ xưa đã biết vận
dụng� những "c�u
hứng", những c�u khai m�o, rao bản, những
"c�u thơ v� nghĩa" m� một số nh� thơ T�y
phương, trước thực tại bế tắc trong
thi đ�n hiện nay của họ, đã phải l�n
tiếng th� nhận rằng: " Sự v�-nghĩa đã
trở th�nh một trong những phương s�ch cứu vãn
ưu ti�n cho thi ca hiện đại" (18).
V� cũng đủ cho ch�ng ta nhận ch�n điểm đặc
sắc của ng�n ngữ Việt l� rất "gi�u
sang" kh�ng những về hình tượng, m� còn về văn
ảnh, m� theo một nh� ph� bình Ph�p, "văn ảnh c�
khuynh hướng trở th�nh một dấu hiệu đặc
trưng của thi ca hiện đại." (19)
Nếu cho rằng thi ca truyền
khẩu Việt Nam vốn c� bản chất thơ v� �t
nhiều t�nh chất hiện đại, tưởng kh�ng
phải l� một khẳng định thậm xưng.
Sở
dĩ thi ca truyền khẩu của ta c� được gi�
trị gì nghệ thuật, văn h�a đ�ng kể,
phần n�o cũng nhờ tập qu�n "h�t, hò" cố
hữu của d�n tộc Việt Nam để b�y tỏ
tình ý của mình m� ứng xử trong mọi ho�n cảnh
của cuộc sống hằng ng�y trong gia đình, cũng
như ngo�i xã hội. �ng cha ch�ng ta ngồi buồn cũng
h�t, ru con cũng h�t, dỗ con chơi cũng h�t, trai g�i
chọc ghẹo nhau cũng h�t, tỏ tình giao duy�n với
nhau cũng h�t, thương y�u nhau cũng h�t, nhớ nhung,
giận dỗi, buồn rầu, thất vọng... cũng
h�t, l�m ruộng cũng h�t, giả gạo cũng h�t, ch�o đò
cũng h�t, c�ng lễ, l�n dồng cũng h�t, đ�nh b�i
(chòi) cũng h�t, cuối c�ng đưa đ�m ma ra nghĩa địa
cũng h�t. Thậm ch�, (cũng v�o thời xưa), thi�n
hạ chửi rủa mắng mỏ nhau, cũng th�nh c�u c�
vần c� điệu như l� h�t. Cho n�n th�i quen hò h�t, c�c ý
thức vần điệu nhịp nh�ng đã th�nh như
một bản t�nh tự nhi�n của con người
Việt nam từ ng�n xưa:
Đố ai nằm võng kh�ng đưa,
(1) �Paul Val�ry, Propos sur la Po�sie,
1927, (repris dans Vari�t�) cit� par Jean-Louis Joubert, dans La po�sie,
Armand Colin, Paris, 1992, trang 53: (Le langage dont je viens de me servir, qui
vient d'exprimer mon dessein, mon d�sir, mon commandement, mon opinion, ma
demande ou ma r�ponse, ce langage qui a rempli son office, s'�vanouit � peine
arriv�. Je l'ai �mis pour qu'il p�risse, pour qu'il se transforme
irr�vocablement en vous.... Si vous avez compris mes paroles, mes paroles m�mes
ne vous sont plus rien; elles ont disparu de vos esprits, cependant que vous
poss�dez leur contre-partie, vous poss�dez, sous forme d'id�es et de relations,
de quoi restituer la signification de ces propos, sous une forme qui peut �tre
diff�rente.).
(2) �Paul Zumthor, Introduction � la po�sie
orale , Paris, Seuil, 1983, trang 59 (On peut douter qu'il exista jamais
dans l'histoire une culture d�pourvue de po�sie orale.).
(3) �Jean-Louis Joubert, La po�sie , Paris,
Armand Colin, 1992, trang 13: (Quand l'�criture n'existe pas, on a recours � la
po�sie pour fixer et p�renniser ce que disent ou pensent les hommes...
L'oralit� conserve aussi bien, parfois mieux que l'�criture... Etant un
langage-m�moire, elle suscite une forme qui prot�ge, conserve et transmet.).
(4) Paul Zumthor, Introduction � la po�sie
orale, s.đ.d., trang 80 (Le fonctionnement de la m�moire collective
d�termine le mode de structuration po�tique. Le po�me y appara�t
"relecture" plut�t que "cr�ation".).
(5) �Nguyễn Tr�c Phượng, Việt
Nam Văn Học Bình D�n, Khai Tr�, Saigon 1970, Xu�n Thu t�i
bản, California, Hoa Ky, năm ?, trang 101.
(6)� Jean-Louis Joubert, La po�sie, s.đ.d.,
Inspiration, trang 29.
(7) �Paul Verlaine, Jadis et nagu�re
"Pantoum n�glig�", 1884: "Trois petits p�t�s, ma chemise
br�le./ Monsieur le cur� n'aime pas les os./ Ma cousine est blonde, elle a nom
Ursule./ Que n'�migrons-nous vers les Palaiseaux!".
(8) �Paul Val�ry, Po�sie et pens�e abstraite,
1939, repris dans Vari�t�, cit� par J.-L. Joubert dans La po�sie, s.đ.d.,
trang 54 (Un po�te... n'a pas pour fonction de ressentir l'�tat po�tique: ceci
est une affaire priv�e. Il a pour fonction de le cr�er chez les autres.).
(9) �Paul Zumthor, Introduction � la po�sie
orale , s.đ.d., trang 80-81 (Pour cette raison m�me, la po�sie orale
comporte g�n�ralement plus de r�gles, et plus complexe, que l'�crite: dans les
soci�t�s � forte pr�dominance orale, elle constitue souvent un art beaucoup
plus �labor� que la plupart des produits de notre �criture.).
(10) �Jean-Louis Joubert, La po�sie, s.đ.d.,
trang 14: (La composition se calque sur les rythmes du corps; la scansion
�pouse la respiration. Des proc�d�s simples o� le gestuel et le linguistique se
superposent - s�ries de balancements et de contre-balancements, de r�p�titons
et d'antith�ses, de sym�tries et d'inversions, de parall�lismes et d'assonances,
etc... - facilitent le travail de la m�morisation et assurent la connivence de
l'auditoire, en m�me temps qu'ils permettent la cr�ation par la jeu de variations � l'infini. Cette
inscription de la po�sie dans les gestes et le corps perdure m�me lorsqu'on
s'�loigne de l'oralit�. C'est elle qui fonde le rythme, par quoi la po�sie se
distingue d'autres formes de langage.).
(11) �Jean-Louis Joubert, La po�sie, s.đ.d.,
trang 110: (Le parall�lisme est une notion r�cente qui n'int�resse gu�re la
rh�torique classique. Quand Malherbe traduit les Psaumes, il semble ne pas voir
que la po�sie biblique se fonde sur parall�lismes et il ne cherche gu�re � les
restituer en fran�ais.).
(12) ��Bình-Nguy�n
Lộc, Nguồn gốc Mã Lai của d�n tộc Việt
Nam, Xu�n Thu, Saigon, 1971, t�i bản California, Hoa kỳ, năm ?, Chi �u, chi Lạc,
trang 307-319.
(13) �Paul Val�ry, Passage de Verlaine,
1921, in Vari�t� (La po�sie est l'ambition d'un discours qui soit charg� de
plus de sens et m�l� de plus de musique que le langage ordinaire n'en porte et
n'en peut porter.).
(14)� �B�i Kỷ, Quốc văn cụ thể , H� Nội,
năm 1932, trang� 25.
(15) ��Ho�i
Thanh, Ho�i Ch�n, Thi nh�n Việt Nam, 1942, Nh� xb H�nội t�i
bản, 1988, trang 41, bị ch� số 1 c�ng trang.
(16)� Jean-Louis Joubert, La po�sie, s.đ.d.,
trang� 45, 46: (C'est dans le Premier
manifeste qu'Andr� Breton propose une d�finition de l'image, reprise
d'ailleurs de Pierre Reverdy: "L'image est une cr�ation pure de l'esprit.
Elle ne peut na�tre d'une comparaison mais du rapprochement de deux r�alit�s
�loign�es. Plus le rapport de deux r�alit�s seront lointaines et justes, plus
l'image sera forte..., plus elle aura de puissance �motive et de r�alit�
po�tique.).
(17) �Paul Val�ry, Commentaire des
"Charmes", 1929 (repris dans Vari�t�).cit� par Jean-Louis
Joubert, La po�sie, s.đ.d., trang 52: (C'est une erreur contraire �
la nature de la po�sie, et qui lui serait m�me mortelle, que de pr�tendre qu'�
tout po�me correspond un sens v�ritable unique, et conforme ou identique �
quelque pens�e de l'auteur.).
(18) �Jean-Louis Joubert, La po�sie, s.đ.d.,
Po�sie et r�volution, trang 58 (Le non-sens est devenu l'un des recours
privil�gi�s de la po�sie contemporaine.).
(19) �Jean-Louis Joubert, La po�sie, s.đ.d.,
trang 45 (L'image tend � devenir signe distinctif de la po�sie moderne.).
|